Mai rùa gieo quẻ dịch -ngũ nhạc quán

Trong khu công trình biên khảo ” Lịch sử Triết học Trung Quốc ” của tác giả Phùng Hữu Lan. Khi bàn về nội dung ” Phép bói của người Trung Quốc rất lâu rồi “. Ông đã iệt kê 6 phép dự trắc chính yếu mà ông gọi chung là thuật số 術數, gồm có : thiên văn 天文 ( astrology ), lịch phổ 歷譜 ( almanacs ), ngũ hành 五行 ( five elements ), thi quy 蓍龜 ( yarrow stalk divination and tortoise shell divination ), tạp chiêm 雜占 ( miscellaneous divinations ), và hình pháp 形法 ( system of forms ). Trong bài viết này chúng tôi số lượng giới hạn đề tài ở ba phép bói : bói giáp cốt, bói cỏ thi, và bói đồng xu. Thật ra là hai phép mà Phùng Hữu Lan gọi chung là thi quy. Phép bói đồng xu ( coin oracle ) là biến dạng của bói cỏ thi .

Về các hình thức bói:

– Phép bói giáp cốt có từ đời Thương 商 (1766-1121 tcn). 
– Phép bói cỏ thi có từ đời Chu 周 (1121-255 tcn). 
– Phép bói đồng xu không rõ xuất hiện tự bao giờ. Các phép bói này về cơ bản bản chất dụng sựi luận đoán đến nay gần như không lưu truyền rộng rãi, Dân gian hiện nay đang dùng chỉ là vay mượn mà thôi.

CĂN NGUYÊN VIỆC BỐC PHỆ
Xã hội phương Đông ( Nước Trung Hoa, An Nam, Cao Ly … ) cổ đại đắm chìm trong bầu không khí thần bí, mê tín dị đoan. Người dân thuở ấy tin rằng người và ngoài hành tinh có mối đối sánh tương quan mật thiết. Họ tin cậy và quy phục những thế lực siêu nhiên và từ đó phát sinh tín ngưỡng đa thần ( 多神論 polytheism ) ; và cũng từ đó nảy sinh giới phù thủy, đồng cốt, thầy cúng, thầy bói … Chính những người này đã vẽ vời những nghi thức cúng tế, xếp đặt ngôi vị cho những thiện thần và ác thần. Đến đời Hạ 夏 ( 2205 – 1766 tcn ), đời Thương 商 ( 1766 – 1121 tcn ), ý niệm Thiên 天 và Đế 帝 Open. Tín ngưỡng nhất thần ( 一神論 monotheism ) sinh ra với ảnh hưởng tác động can đảm và mạnh mẽ và được truyền bá song hành với tín ngưỡng đa thần .
NGHI THỨC BỐC PHỆ-LUẬT CẢM ỨNG

Mục đích bói đã rõ, nhưng việc bói muốn thành công phải có lễ nghi và thành khẩn. Trong bốc phệ có luật cảm ứng (nếu ta có thể gọi đó là luật). Người xem bói (enquirer) phải cảm (tức là thành khẩn) thì thần minh mới ứng (đáp ứng, trả lời). Những người bói toán thường vin vào đây để chống chế cho những lời giải đoán sai lạc tối tăm của họ: Vì người xem bói không thành khẩn nên quẻ bói không linh nghiệm.

Sự thành khẩn phải thể hiện cụ thể, từ thái độ trân trọng vật để bói cho đến nghi thức tiến hành phép bói. Ngô Tất Tố ghi chép khá kỹ về nghi thức bốc phệ. Nào là cách làm nhà chứa cỏ thi, cách giữ gìn, cách bố trí chỗ bói, nào là cách khấn vái, cúng lạy, v.v. Chính lời khấn vái này phản ánh mục đích người xem bói: «Mượn ngươi vật bói lớn (đọc 2 lần). Tôi (chức tước, họ tên) vì việc chưa biết nên hay chăng, vậy đem lời nghi hoặc hỏi thần linh. Việc sẽ lành dữ, được mất, hối tiếc hay lo sợ, ngươi có thiêng hãy bảo cho rõ.»

John Blofeld, trong quyển I Ching (The ancient Chinese Book of Divination) của ông, đã tóm tắt cách bói trong 11 điều, trong đó có 4 điều về nghi thức sau khi ông dành trọn hai chương nói về bói Dịch. Tôi dịch 4 điều đó như sau:

1. Khi không dùng Kinh Dịch, hãy bọc sách lại sạch sẽ bằng vải hay lụa và để chỗ cao thích hợp, thấp nhất là ngang vai người lớn đứng thẳng. Các thẻ bói (divining sticks) được đặt trong hộp có nắp đậy và không được dùng cho mục đích khác. Đặt hộp thẻ bói kế bên quyển Kinh Dịch. (Blofeld thay cỏ thi bằng những thẻ tre chừng 1-2 feet, cỡ kim đan áo len).

2. Trước lúc lập quẻ bói, lấy Kinh Dịch xuống, đặt lên bàn giữa phòng, hướng về phía Nam. Trên bàn còn đặt bát nhang ( incense burner ), 50 thẻ bói, hai khay nhỏ, và giấy bút .

3. Người xem bói quỳ trước bàn, lưng xoay về phía Nam, lạy 3 lạy (the enquirer prostrates himself thrice), đốt nhang và khấn (khấn thầm hoặc ra tiếng). Trong lúc khấn, tay phải cầm 50 thẻ bói đảo 3 vòng theo chiều kim đồng hồ trong khói hương xông lên. Sau đó lập quẻ bói và đoán.

4. Khi bói xong, thắp một nén nhang nữa, lạy 3 lạy, cất dụng cụ bói về chỗ cũ .
Các nhà nghiên cứu Kinh Dịch trình diễn hơi khác nhau về nghi thức bói nhưng đại khái đều nhấn mạnh vấn đề đến sự thành khẩn .
BÓI GIÁP CỐT VÀ GIÁP CỐT VĂN

Trong hai chữ bốc phệ, bốc 卜 tức là phép bói rùa (bói giáp cốt) và phệ 筮 là phép bói bằng cỏ thi. Phép bói giáp cốt có từ đời Thương. Giáp 甲 ở đây là quy giáp 龜甲 (mai rùa: tortoise shell, tortoise carapace). Cốt ở đây là xương bả vai (scapula) cuả thú vật (bò hoặc nai). Theo Bản Thảo Cương Mục, mai rùa để bói là của loài thủy quy 水龜 (rùa nước), loài này rất giống một loài rùa có tên khoa học là reevesii. Nhưng các nhà khảo cổ khảo sát những mai rùa đào được ở An Dương lại cho rằng đó là loài địa quy 地龜 (rùa đất, land tortoise), tên khoa học là pseudocadia anyangensis nay đã tuyệt chủng.

Cách bói bằng mai rùa và xương thú được gọi là bốc卜. Chữ bốc gồm một nét dọc (tung) và một nét ngang (hoành) tượng trưng nét nứt trên mai rùa sau khi bị hơ nóng (Chích quy chi hình, quy triệu chi tung hoành dã 炙龜之形龜兆之縰橫也).[23] Nguyễn Hiến Lê hiểu quy giáp là yếm rùa chứ không phải mai rùa (có lẽ vì yếm rùa dễ nứt hơn?)[24] Lưu Ngọc Kiến 劉玉建 trong Trung Quốc Cổ Đại Quy Bốc Văn Hóa 中國古代龜卜文化 [25] đã trưng dẫn nhiều hình ảnh về những mảnh quy giáp bao gồm cả mai rùa (bối giáp 背甲) lẫn yếm rùa (phúc giáp 腹甲). Thực tế người ta còn đào được những mảnh giáp kiều 甲橋 (phần hông tiếp giáp bối giáp và phúc giáp) có khắc chữ.

Nhưng tại sao lại dùng mai rùa ? Linh mục Larre trong bài thuyết trình tại Trung Tâm Văn Hóa Pháp ( Saigon, 1965 ) về Đạo Xử Kỷ Tiếp Vật Trong Kinh Dịch ( Le savoir vivre dans le Livre des Mutations ) bảo cổ nhân dùng mai rùa vì rùa là một ngoài hành tinh thu nhỏ. Mai rùa tượng trưng cho vòm trời, bốn chân tượng trưng cho đất. Còn cỏ thi ( l’achillée millefeuille ) là cỏ thiêng hoàn toàn có thể cảm ứng được những biến dịch trong ngoài hành tinh. Charles Poncé thì bảo rùa là vật mang sự minh triết ( the carrier of wisdom ), không những biết được những bí hiểm dưới đáy biển mà còn ôm ấp những bí hiểm ấy trong bụng. Rùa sống được dưới nước lẫn trên đất, nó dung hòa hai hành kìm hãm trong ngũ hành 五行 là thủy 水 ( nước ) và thổ 土 ( đất )
Thật ra người Trung quốc cổ đại có nhiều phép bói tùy theo nhóm dân tộc bản địa. Hán tộc dùng cốt bốc  骨卜 ( bói xương ), quy bốc  龜卜 ( bói rùa ), thi phệ 蓍筮 ( bói cỏ thi ). Đó là ba phép bói chính thống được sử dụng trong ba vương triều : Hạ 夏, Thương 商, và Chu 周. Các dân thiểu số lại có những phép bói riêng như : tộc Khổ Thông 苦聰 bói bằng cỏ ( thảo ), trứng gà ( kê đản ) ; tộc Ngõa 佤 ( nay đa phần phân bổ ở tỉnh Vân Nam ) bói bằng gan trâu, gan bò ( ngưu can ), xương gà ( kê cốt ) ; tộc Lê 黎 ( nay ở Quảng Đông ) bói bằng gà ( kê ), đá ( thạch ), nắm bùn ( nê bao ) ; tộc Cảnh Pha 景頗 ( nay ở Vân Nam ) bói bằng tre trúc ( trúc ) ; tộc Lật Túc 傈僳 ( đọc là lisu, nay ở tỉnh Vân Nam ) bói bằng dao ( đao ), vỏ sò vỏ ốc ( bối xác ) ; tộc Di 彝 ( nay ở Vân Nam, Tứ Xuyên, Quý Châu ) bói bằng xương bả vai của con dê ( dương kiên giáp cốt 羊 肩 胛 骨 ) ; tộc Khương 羌 ( nay ở Tứ Xuyên ) bói bằng trứng gà ( kê đản ), lông dê ( dương mao ), v.v… [ 29 ] Điều này chính Tư Mã Thiên cũng xác nhận : « Tam vương bất đồng quy, tứ di những dị bốc. » 三王不同龜四夷各異卜 ( Sử Ký, Quy sách liệt truyện 龜策列傳 ). Hán tộc sùng bái rùa vì rùa là một trong bốn linh vật như Lễ Ký đã xác lập : « Hà vị chi tứ linh ? Lân, phụng, quy, long vị chi tứ linh. » 何謂之四靈麟鳳龜龍謂之四靈 ( Bốn thiêng vật là gì ? Lân, phượng, rùa và rồng được gọi là tứ linh ) ( Lễ Ký 禮記, Lễ vận 禮運 ). Trong tứ linh chỉ có quy là có thật còn ba linh vật kia là lịch sử một thời, chỉ nghe nói, chưa ai thấy. Quy đứng đầu tứ linh. Theo Vương Hữu Tam 王友三. sùng bái tứ linh, nhất là sùng bái rùa là một hình thức của tôn giáo nguyên thủy của Trung Quốc .
Ý NGHĨA CỦA RÙA TRONG BÓI DỊCH VÀ ĐỜI SỐNG TINH THẦN

(1) Quy được xem là vật trân bảo, tầm cỡ quốc bảo. Kinh Thư (Hạ Thư-Vũ Cống) có câu : «Cửu Giang nạp tích đại quy.» 九江納錫大龜 (Dân Cửu Giang phải cống nạp rùa lớn). Khổng An Quốc nói: «Xích nhị thốn viết đại quy, xuất ư Cửu Giang thủy trung, quy bất thường dụng, tích mệnh nhi nạp chi.» 尺二寸曰大龜出於九江水中龜不常用錫命而納之 (Rùa một thước hai tấc gọi là đại quy, phát xuất từ Cửu Giang,[34] rùa này người ta không thường dùng, mà theo lệnh phải cống nạp). Kinh Thư (Chu Thư-Đại Cáo) có câu: «Ninh Vương di ngã đại bảo quy, thiệu thiên minh tức mệnh.» 寧王遺我大寶龜紹天明即命 (Vua Ninh Vương [tức là Vũ Vương] di tặng cho ta con rùa lớn rất quý báu dùng để xem mệnh Trời). Lễ Ký(chương Lễ Khí) chép: «Chư hầu dĩ quy vi bảo.» 諸侯以龜為寶 (Chư hầu xem rùa là vật báu). Khổng Dĩnh Đạt chú sớ: «Chư hầu dĩ quy vi bảo giả, chư hầu hữu bảo thổ chi trọng nghi tu chiêm tường cát hung, cố đắc dĩ quy vi bảo dã.» 諸侯以龜為寶者諸侯有保土之重宜須占詳吉凶故得以龜為寶也 (Chư hầu xem rùa là vật báu vì việc quan trọng là bảo vệ lãnh thổ, nên cần xem bói để rõ việc tốt xấu. Vì thế khi được rùa, xem đó là vật báu).

( 2 ) Quy là hình tượng của sự tài phú. Hán Thư ( chương Thực Hóa Chí 食貨誌 ) nói : « Thực vị nông thực gia cốc khả thực chi vật. Hóa vị bố bạch khả ý, cập kim đao quy bối, sở dĩ phân tài bố lợi thông hữu vô dã. Nhị giả sinh dân chi bản, hưng tự Thần Nông chi thế … Thực túc hóa thông, nhiên hậu quốc thực dân phú, nhi giáo hóa thành. » 食謂農殖嘉谷可食之物貨謂布帛可衣及金刀龜貝所以分財布利通有無也而者生民之本興自神農之世 … 食足貨通然後國實民富而教化成 ( Thực phẩm là những thứ nhà nông trồng trọt cày cấy và ăn được. Hóa là những thứ vải bố vải lụa hoàn toàn có thể mặc cho đến vàng, dao, rùa, vỏ sò nhằm mục đích phân bổ tài lợi và lưu thông vật chất giữa chỗ có và chỗ không. Cả hai thứ ấy là điều cơ bản của đời sống dân chúng. Chúng hưng thịnh từ đời Thần Nông về sau … Lương thực vừa đủ, sản phẩm & hàng hóa lưu thông thì nước mạnh dân giàu, và rồi việc giáo hóa dân chúng mới thành tựu ). Như vậy quy giáp ngoài việc dùng để bói còn là một sản phẩm & hàng hóa giá trị, thậm chí còn được sử dụng là một thứ tiền ( hóa tệ 貨幣 ) .
( 3 ) Quy có tuổi thọ cao, biến hóa khôn lường nên linh vật này được dùng để bói. Luận Hành của Vương Sung, chương Bốc Phệ, có ghi chép cuộc đối thoại giữa Khổng Tử và cao đệ là Tử Lộ : « Tử Lộ vấn Khổng Tử viết : Trư kiên dương bác khả dĩ đắc triệu, hoan vĩ cao mao khả dĩ đắc số, hà tất dĩ thi quy ? Khổng Tử viết : Bất nhiên. Cái thủ kỳ danh dã. Phù thi chi vi ngôn kỳ dã, quy chi vi ngôn cựu dã. Minh hồ nghi chi sự, đương vấn kỳ cựu dã. » 子路問孔子曰豬肩羊膊可以得兆雚葦藳芼可以得數何必以蓍龜孔子曰不然蓋取其名也夫蓍之為言耆也龜之為言舊也明狐疑之事當問耆舊也 ( Tử Lộ hỏi Khổng Tử rằng : Thưa Thầy, xương vai heo, xương bả vai dê đều hoàn toàn có thể [ hơ nóng để tìm vết nứt mà ] bói ; cỏ hoan, cỏ vĩ, cỏ cao và cỏ mao cũng có thế bói xem số mệnh, việc gì mà phải dùng cỏ thi và mai rùa ? Khổng Tử đáp : Không phải như vậy. Ấy chính bới cái tên của chúng. Nói chung, thi [ cỏ thi ] là gọi từ kỳ [ bậc kỳ lão sống lâu ], còn quy là gọi từ cựu [ cố cựu, truyền kiếp ]. Muốn hiểu rõ việc mình đang hồ nghi thì phải hỏi han người kỳ cựu vậy ) .

( 4 ) Quy là hình tượng tam tài : thiên địa nhân. Lưng rùa ( quy bối ) cong tròn lên, tượng trưng cho vòm trời ; yếm rùa ( phúc giáp ) phẳng và có góc cạnh, tượng trưng cho đất, ứng với thuyết thiên viên địa phương ( trời tròn đất vuông ). Sách Chu Bễ Toán Kinh 周髀算經 nói : « Phương thuộc địa, viên thuộc thiên, thiên viên địa phương. » 方屬地圓屬天天圓地方 ( Vuông là thuộc tính của đất, tròn là thuộc tính của trời, nên trời tròn và đất vuông ). Dịch Truyện ( thuyết quái ) nói : « Càn vi thiên, vi viên. » 乾為天為圓 ( Càn là trời, thì tròn ). Lã Thị Xuân Thu 呂氏春秋 ( thiên Viên Đạo 圓道 ) viết : « Thiên viên nhi địa phương, thánh vương pháp chi, sở dĩ lập thượng hạ. » 天圓而地方聖王法之所以立上下 ( Trời tròn mà đất vuông, bậc thánh vương noi theo đó mà ấn định phép tắc có trật tự xấp xỉ ). Rùa theo truyền thuyết thần thoại bị bà Nữ Oa 女媧 chặt chân làm cột chống trời ,

Có thể bạn quan tâm
Alternate Text Gọi ngay
XSMB