Ứng Dụng Tiên Thiên Bát Quái Phục Hy – 8 Quẻ của Trời Đất

Ứng dụng Tiên Thiên Bát Quái Phục Hy có ý nghĩa rất lớn vào cuộc sống đầy khó khăn ngày nay. Đôi khi ta chênh vênh, trống trải và cô đơn, không biết điểm đầu và điểm cuối của vạn sự. Tiên Thiên Bát Quái được tạo ra bởi vua Phục Hy bên Trung Hoa, lấy gốc từ quẻ Càn để quán xét vạn hữu. Nay Mã Đắc Khoa xin viết lược qua vài điểm làm căn bản có ứng dụng cho cuộc sống.

Các bài viết cùng chủ đề :Từ thời rất lâu rồi hơn 6000 năm trước ở vùng đất Trung Quốc, dân thời đó dùng chữ tượng hình như ngày này. Hiểu thực chất của Âm Dương rất cơ bản và thâm thúy. Phân Âm – Dương như : sáng – tối, ngày – đêm, đàn ông – đàn bà, trên – dưới, trước – sau, trắng – đen, vui – buồn, niềm hạnh phúc – đau khổ, xấu – đẹp … Và trình diễn thành chữ, thành hình là : vạch liên là dương, vạch đứt là âm, vòng tròn bôi đen là âm, vòng tròn để trống là dương …

Những nhà triết gia thời đó cũng diễn nói nguồn gốc của ÂM – DƯƠNG cũng diễn cái biến hóa của Âm – Dương sinh ra tứ tượng ( 4 trạng thái: Thái Dương, Thiếu Âm và Thái âm, Thiếu Dương.)

4 trạng thái lại biến ra 8 trạng thái nhỏ hơn ( là Càn, Đoài, Ly, Chấn, Không Cấn, Khảm Tốn ) gọi là Bát Quái ( hay đúng hơn là 8 quẻ ). Lại nữa 8 quẻ này diễn thuyết cả quá khứ – hiện tại – vị lai của mọi vật, hiện tượng kỳ lạ trong thiên hà bằng cách chồng 2 quẻ với nhau trong 8 quẻ mà ra 64 quẻ kép. Rồi lại diễn giải ý nghĩa của chúng nên truyền đời gọi là Kinh Dịch ( Quyển kinh về biến hóa ) .Nguồn gốc của Tiên Thiên Bát Quái có niên đại hơn 6000 năm, được vua Phục Hy phát minh sáng tạo ra dựa trên bản Hà Đồ. Bản Hà Đồ này là hình những chấm Đen – Trắng trên sống lưng con thần thú Long Mã trên sông Mạnh Hà. Vua Phục Hy là vị vua tiên phong trong thời Tam Đế của Trung Hoa cổ. Nhiều người cũng hay gọi là Phục Hy bát quái ( Phục Hy tám quẻ ) lấy quẻ CÀN làm gốc, diễn ra nguồn gốc, biến chuyển vạn vật theo nguyên tắc Trời Đất : tăng rồi giảm, thịnh rồi suy, đầy rồi vơi, tan rồi hợp, buồn rồi vui, diệt rồi sinh …Bằng những vạch ( hào ) âm đứt, dương liền, lại sắp xếp những vạch này chồng lên nhau ở 3 vị trí : dưới cùng ( 1 ), giữa ( 2 ), trên ( 3 ). Thành ra 8 quẻ đơn đặt tên : Càn, Đoài, Ly, Chấn ( thuộc dương ) và Khôn, Cấn, Khảm, Tốn ( thuộc âm ). Rồi lại xếp ra những vị trí khác nhau mà đưa ra hiệu quả riêng như :+ Đồ hình Hậu Thiên Bát Quái có niên đại khoảng chừng 3100 năm, được vua Chu Văn Vương phát minh sáng tạo ra, dựa trên bản hình đồ Lạc Thư lấy quẻ Ly làm cơ bản. Diễn cái biến hóa của thực tại, ứng dụng ngay trong đời sống như trị quốc, bình thiên hạ, đánh trận, an dân, phân địa chính, Dự kiến việc lành dữ, nhìn nhận nơi thịnh, nơi suy, người giàu kẻ nghèo, xem người khôn kẻ trí, chỗ nông chỗ cạn của tạo hóa, chỗ phúc họa của số mệnh … Do đó những pháp huyền học đa phần ứng dụng từ Hậu Thiên Bát Quái, để mong cầu đời sống tìm cái phúc, lánh họa, tìm cái phong phú, vẻ vang tránh cái nghèo khó, thấp hèn ý tự chung như vậy .+ Lại số Quy Tàng Bát Quái thời Hoàng Đế Hiên Viên cách đây hơn 4600 năm ( sử gọi là thời Ngũ Đế ). Lấy quẻ Khôn làm gốc tạo ra bát quái Quy Tàng. Diễn Kinh Quy Tàng tìm điểm quy tụ của vạn vật .+ Lại có Liên Sơn Bát Quái thời Thần Nông, khoảng chừng 5000 năm trước ( sử gọi là thời Tam Hoàng ) cũng dựa vào 8 quẻ này mà tạo Liên Sơn Bát Quái lấy quẻ Cấn – Sơn làm gốc. Và tạo sách Dịch Liên Sơn .Ngày nay, được ứng dụng và tăng trưởng chỉ còn Tiên Thiên Bát Quái ( 8 quẻ phân vị trí do vua Phục Hy bày ) và Hậu Thiên Bát Quái ( 8 quẻ phân vị trí do Văn Vương bày ra ) .

Trong thời gian 1 ngày phân ra Âm – Dương. Dương là chỉ ban ngày, dương khí thịnh, khí âm suy. Âm là chỉ ban đêm, khí âm thịnh và dương suy. Biến đổi này thể hiện qua bát quái tiên thiên như sau:

Một ngày chia ra 24 giờ ứng với mỗi quẻ là 3 giờ lúc bấy giờ .
Bắt đầu khí dương tăng dần từ quẻ Chấn đến cực lớn là quẻ Càn :

*Quẻ Chấn:có 1 vạch dương liền dưới cùng, trên là 2 vạch âm đứt) tại phương vị Đông Bắc, dương khí từ nơi thấp. Bầu trời có chút mờ mờ sáng lúc 4h ( Hướng đông bắc-giờ Dần)

* Quẻ Ly: có 2 vạch âm đứt kẹp giữa vạch dương liền) cái dương vẫn chưa thoát hẳn. Mặt trời mới ló rạng, nhưng đã phân tách được sáng với tối rồi. Tượng mặt trời lúc 6 giờ sáng ( Hướng đông: là giờ Mão)

* Quẻ Đoài:2 vạch âm đứt, trên cùng là 1 dương liền) tức dương khí đã lên cao, lan tảo hơi ấm cho vạn vật, ánh sáng tran hòa, dễ chịu. Lúc đó mặt trời lúc 10 giờ sáng ( Hướng đông Nam- giờ Tỵ)

* Quẻ Càn: với 3 vạch dương liền, dương khí đạt cực đại, mặt trời lúc 12 giờ và là lúc lên cao (Hướng Nam- cung Ngọ). Năng nóng và gay gắt.

Tận cùng sinh biến. Dương cực thịnh thì âm khởi đầu sinh. Dương suy rồi tới âm thịnh. Biểu kiến từ quẻ Tốn tới quẻ Khôn vậy

* Quẻ Tốn: vạch âm đứt dưới cùng đã xuất hiện, trên là 2 vạch dương liền. Tượng trưng cho sức nóng mặt trời đã dịu đi chút ít, lúc đó đã là 2 giờ chiều ( hướng Tây Nam – giờ mùi).

* Quẻ Khảm: với 2 vạch âm đứt kẹp giữa vạch dương liền, khi mặt trời đã dần khuất, lấp ló dưới chân trời là ánh hoàng hôn lúc 5 giờ chiều. ( Hướng Tây – giờ Dậu).

* Quẻ Cấn: với 2 vạch âm dưới cùng, trên là 1 vạch dương. Mặt trời đã tắt hẳn, nhưng trời chưa tối đen hẳn khoảng lúc 8 giờ tối ( hướng Tây Bắc – giờ Tuất).

*Quẻ Khôn: với 3 vạch âm đứt, bầu trời đã tối mịt, các vì sao cũng nhìn thấy rõ hơn, đây là lúc 12 giờ đêm ( Hướng Bắc – giờ Tý).

Ứng dụng Tiên Thiên Bát Quái biểu kiến thời gian trong tháng

Để lưu lại thời hạn trong một tháng, người xưa xét theo quy luật đổi khác của mặt trăng bằng những ngày Sóc, Vọng, Huyền, Mai, Dựng, Thừa, Khuy .

  • Tuần Sóc là thời gian từ mùng 1 đến mùng 10.
  • Tuần Vọng là thời gian trăng tròn.
  • Tuần Huyền là thời gian trăng lưỡi liềm.
  • Tuần Mai là tối
  • Tuần Dựng, Thừa, khuy là thời gian trăng khuyết

Khi diễn giải sự biến thiên của thời gian trong tháng, người xưa dùng bát quái Tiên Thiên để mô tả:

Giai đoạn Tuần – Huyền đến tuần Trăng Tròn là lúc dương trưởng và âm tiêu : từ phần Thiếu Âm ( Quẻ Chấn đến quẻ Ly ) rồi thành Thái Dương ( quẻ Đoài đến quẻ Càn ). Quẻ Càn có 3 vạch dương liền ứng với Vọng lúc trăng tròn đầy ( vào ngày 16 âm hằng tháng ). 4 Quẻ gốc dương Chấn, Ly Đoài, Càn đi theo bên Tả .
Giai đoạn Tuần Trăn Tròn ( hay còn gọi Tương – Vọng ) đến lúc không có Trăng ( Tuần Mai ) dương tiêu âm trưởng : ứng với phần đổi khác từ Thiếu Dương ( mở màn từ quẻ Tốn, chuyển sang quẻ Khảm ) đến phần Thái Âm ( từ quẻ Cấn đến quẻ Khôn ). 4 quẻ gốc âm : Tốn, Khảm, Cấn, Khôn đi theo bên Hữu .
* Từ ngày mùng 3 đến ngày mùng 7 hằng tháng : Vào giờ Tuất, hướng Canh ( hướng Tây lệch phía Tây Nam ), thấy Trăng sáng 1 phần tượng cho quẻ Chấn ( 1 vạch dương dưới cùng ) .
Do đó Quẻ Chấn nạp can Canh. Với Hạ quẻ trong Kinh Dịch thì lần lượt phối từ hào 1 đến hào 3 là : Canh Tý, Canh Dần, Canh Thìn. Còn Thượng quẻ lần lượt là : Canh Ngọ, Canh Thân, Canh Tuất. ( phần theo chiều thuận ở địa chi )
* Từ ngày mùng 8 đến 12 ( thời hạn Thượng – Huyền ) vào giờ Tuất, hướng Đinh ( ở hướng nam, gần ghé tây nam ), mặt Trăng sáng 2 phần tượng quẻ Đoài ( 2 vạch dương liền, trên là 1 vạch âm đứt ) .
Do đó quẻ Đoài nạp can Đinh. Trong kinh dịch phối lần lượt như sau : với Đoài ở Hạ quẻ thì dưới đi lên lần lượt : Đinh Tỵ, Đinh Mão, Đinh Sửu. Ở Thượng quẻ thì dưới đi lên lần lượt : Đinh Hợi, Đinh Dậu, Đinh Mùi. ( phần theo chiều nghịch ở địa chi ) .
* Từ ngày 13 đến ngày 17 ( Tuần Tương – Vọng ), thời gian này Trăng tròn và sáng trượng cho quẻ Càn, vào giờ Tuất, hướng Giáp ( ở hướng hướng đông, gần ghé hướng đông bắc ) .
Nên nạp thiên can Giáp vào quẻ Càn. Trong 64 quẻ Kinh Dịch phối ở Hạ quẻ là Giáp Tý, Giáp Dần, Giáp Thìn. Thượng quẻ là Nhâm Ngọ, Nhâm Thân, Nhâm Tuất .
* Mồi tháng từ ngày 18 đến ngày 22 : Vào giờ Mão, nhìn mặt Trăng bị ám 1 phần tượng cho quẻ Tốn tại hướng Tân ( hướng Tây gần ghé Tây Bắc ) .
Nên nạp can Tân vào quẻ Tốn lần lượt ở Hạ quẻ là Tân Sửu, Tân Hợi, Tân Dậu. Nơi Thượng quẻ : Tân Mùi, Tân Tỵ, Tân Mão .
* Mỗi tháng Hạ – Huyền từ ngày 23 đến ngày 27, vào giờ Mão, mặt Trăng bị tối đi 2 phần tượng cho quẻ Cấn, tại hướng Bính ( hướng nam gần ghé đông nam ) .

Nên nạp can Bính vào quẻ Cấn lần lượt ở Hạ quẻ: Bính Thìn, Bính Ngọ, Bính Thân. Nơi Thượng quẻ: Bính Tuất, Bính Tý, Bính Thìn.

* Mỗi tháng Tương – Mai từ 28 đến mùng 2 tháng sau xuất giờ Mão. Trăng tối tượng quẻ Khôn ở phương Ất ( hướng đông gần nghé đông nam ) .
Nên nạp can Ất vào quẻ Khôn lần lượt ở Hạ quẻ : Ất Mùi, Ất Tỵ, Ất Mão. Nơi Thượng quẻ : Quý Sửu, Quý Hợi, Quý Dậu .
Lưu ý : phối can chi vào quẻ, hào thì dương thuận và âm nghịch .

Các mùa trong năm biểu kiến qua Bát Quái Tiên Thiên của Phục Hy.

Một năm là khoảng chừng thời hạn Trái Đất đi hết một vòng quanh Mặt Trời hết 365,25 ngày. Người xưa tính chu kỳ luân hồi quay là 360 ngày là 1 năm, cứ 4 năm là có 1 năm có tháng nhuận ( 4 x 5,25 ngày = 30 ngày ) .
Với mỗi điểm khoảng cách Trái Đất và Mặt Trời hình thành mùa trong năm trên Trái Đất .
– Điểm Hạ Chí : vùng nửa bán cầu Bắc của Trái Đất gần Mặt Trời nhất, thời hạn này là mùa hè .
– Điểm Đông Chí : cùng nửa bán cầu Bắc của Trái Đất xa Mặt Trời nhất, thời hạn này là mùa đông .
Bằng việc xếp vạch ( hào ) ở những quẻ dương ( Càn, Đoài, Ly, Chấn ) và quẻ Âm ( Khôn, Cấn, Khảm, Tốn ) biểu kiến được những mùa trong năm .
* Mùa Xuân : khởi từ tháng giêng ( tức tháng 1 âm lịch ), tháng Dần, khí trời đang ấm dần lên, chồi non đâm trồi, nảy lộc tượng cho quẻ Chấn ( Dương khí mới hình thành, ở nơi thấp nhất tại hào 1 ) .
* Mùa Hạ : Khởi từ tháng năm, tháng này là tháng Ngọ ( tức tháng 5 âm lịch ), vị trí Trái Đất và Mặt Trời gần nhau, trời nóng giãy, tượng cho quẻ Càn ( 3 hào dương )
* Mùa Thu : Khi trời, khô cứng, nhiệt độ tiết trời giảm vì Trái Đất bắt đâu vận động và di chuyển tới điểm cách xa Mặt Trời, thời tiết dần thoáng mát, dễ chịu và thoải mái, thanh khí. Tháng này là tháng Thân ( tức tháng 7 âm lịch ). Tượng cho quẻ Tốn ( 1 hào âm dưới cùng, trên là 2 hào dương ) .
* Mùa Đông : Trời đã giá lạnh, vạn vật như ẩn mình trong đất, nhiêt độ thấp nhất trong năm, đêm dài hơn ngày. Khoảng thời hạn này khởi đầu từ tháng 10 âm lịch. Tượng cho quẻ Khôn ( 3 hào đều âm cả ) .

Ứng dụng Tiên Thiên Bát Quái lý giải quá trình hình thành của Trái Đất

Giai đoạn đầu Trái Đất biến đổi tượng phần Dương của Tiên Thiên Bát Quái Phục Hy

Quá trình hình thành Trái Đất hay bất kể các hành tinh khác trong vũ trụ đều tuần tự biến đổi vật chất như trong các quẻ của Tiên Thiên Bát Quái.

*Ngày từ thủa ban đầu, cách đây hơn 5,4 tỷ năm Trái Đất là khối cầu nóng bỏng và sôi sục như Mặt Trời hiện nay. Giai đoạn này tượng cho quẻ Càn- Trời ( với 3 hào dương liền, cũng tượng cho Mặt Trời đầy cương cường, dũng mãnh).

* Sau đó quả Cầu nóng này, dần giảm nhiệt độ, trên bề mặt xuất hiển các tảng vật chất kim loại được hình thành từ quá trình phản ứng nhiệt hạch. Các tảng kim loại này vẫn còn nhão, sánh như đầm, hồ. Nhưng mảng vật chất có kết dính với nhau tạo thành đám riêng biệt như 2 vạch âm đứt. Tựa quẻ Đoài- Đầm ( 1 vạch âm đứt trên cùng như bề mặt chỉ dương khí giảm, 2 vạch dương liền phía dưới chỉ nhiệt độ phía dưới bề mặt vẫn còn sôi sục).

* Một thời gian lâu sau cách đây tầm 4,4 tỷ năm khoa học gọi là thời Liên Đại Hỏa Thành ( hay Thái Viễn Cổ), nhiệt độ giảm, bề mặt nguội bớt, Khi đó cũng chưa có đại dương và oxy, phần nhiều bề mặt là kim loại kết dính với nhau. Vì nặng mà lắng xuống dưới. Tượng quẻ Ly- Hỏa ( vạch dương liền bị kẹp giữa 2 vạch âm đứt).

Quẻ Ly có 2 ý : Một là hình thành mảng kim khí sâu trong đất. Hai là khối Cầu nóng này thu nhỏ dần, nấp dưới mặt phẳng. Thời này Trái Đất cũng bị cha chạm, bắn phá bởi những Thiên Thạch, mảnh vỡ của những hành tinh trong hệ Mặt Trời văng ra. Quẻ Ly cũng là ly tán, cũng là cuộc chiến tranh cũng có ý vậy .

*Tới giai đoạn cuối của dương khí ( sức nóng) đã giảm đi và co rút vào tận cùng của lõi Địa Cầu tạo nên khối lửa sôi sùng sục, khối vật chất kim loại lặng xuống vào trong đất sâu, kim loại, vật chất nhẹ nổi trên bề mặt, khí nhẹ như Hydro, Heli bốc lên cao dần dần hình thành các lớp khí quyển. Tượng quẻ Chấn – Sấm

Giai đoạn hình thành những tầng khí quyển mất xấp xỉ 800 triệu năm, tức cách đây khoảng chừng 4,3 tỷ năm. Khí dương phát từ tận cùng sâu ở vạch dương, bốc khí lên trên không, xen qua lớp đất, đá, xuyên qua khoảng chừng giữa 2 vạch âm mà thoát ra ngoài. Khí thăng mang theo bụi, chúng chứa điện tích dương, bốc lên trên không trung. Đến tầng khí quyển lạnh gặp điện tích âm. Tương tác điện tích Âm và Dương thành ra sấm chớp .

Giai đoạn Trái Đất biến đổi tượng phần Âm của Tiên Thiên Bát Quái

* Thời gian thành của Trái Đất ở quẻ Chấn, cũng dần thành trạng thái quẻ Tốn – gió của phần âm của Thái Cực. Giai đoạn này, hệ Mặt Trời cũng dần hình thành vừa đủ như ngày này, Trái Đất hoạt động tự quay và quanh quanh Mặt Trời. Khí dương nơi quẻ Chấn bốc từ trong ra ngoài, từ dưới lên trên, cộng hưởng sự quay của Trái Đất sinh ra quẻ Tốn – gió .
* Lớp khí bốc lên từ đất đạt mức nhất định, thành ra lớp khí quyển bao quanh Trái Đất, cũng nhờ có Tốn – gió đùn đẩy khí từ thấp đến cao, tích góp dần từ ít thành nhiều, từ yếu thành mạnh, thành ra mây và mưa đổ xuống mặt phẳng tượng cho quẻ Khảm – thủy .
* Khoảng 3,8 tỷ năm. Khảm – thủy mưa như trút nước, lênh láng, ngập tràn mặt phẳng tạo ra biển, hồ, sông ngòi. Thủy này cũng làm nguội, lạnh, cứng mặt phẳng của Trái Đất. Vì hóa cứng, mà lò lửa từ tâm Trái Đất sục sôi, bị nén lại, thành ra lực đẩy, bộc phát mạnh hơn sinh ra động đất, núi lửa. Sự di dời của địa tầng va chạm mảng lục địa mà tạo ra vùng cao, thấp, thung lũng, đồng bằng, cao nguyên, núi đá. Tượng ra quẻ Cấn – núi, tức quy trình tiến độ núi hình thành .
* Giai đoạn cuối này, mặt phẳng đá cứng của Cấn – sơn, nhờ vào cái Tốn – gió và Khảm – thủy dần mềm ra, thấm nước, khí ẩm, lắng tụ chất dinh dưỡng như đất mềm ngày này tượng cho quẻ Khôn – đất .
Quẻ Khôn có 3 vạch âm đứt, ý là linh khí đất trời thấm sâu, quanh quẩn đến 3 những tầng lớp đất, nhằm mục đích nuôi dưỡng vạn vật. Quẻ Khôn cũng tượng cho người mẹ, ta cũng hay gọi là mẹ Trái Đất ở Hậu Thiên Bát Quái là vậy .
Cái gọi là Sinh Khí của Trời là những hạt nguồn năng lượng chứa trong tia sáng Mặt Trời và phần còn lại Vũ Trụ chiếu xuống Trái Đất ..
– Nếu không có Cấn – Sơn ( núi ) ngăn cản thì sinh khí này tán đều khắp thập phương, lục hướng trên Trái Đất. Không có chỗ cao – thấp, nhỏ hẹp – rộng dài, cường – suy. Vạn hữu đồng đẳng phân đều sinh khí này cho mọi nơi, moi miền, mọi châu, mọi loài .
– Nếu không có Khảm – Thủy ( nước ) : hút lấy sinh khí thì không có chỗ đầy – vơi, nông – cạn, sang – hèn .
– Nếu không có Tốn – Phong ( gió ) : đùn đẩy, đưa dẫn thì sinh khí này phân bổ đều khắp đất trời. Tuần tự, đúng kỳ xuân, hạ, thu, đông lãnh khí trong năm. Đúng kỳ Tý, Sửu, Dần … rồi đến Tuất, Hợi đủ 12 năm 1 kỳ địa chi, đủ 60 năm là 1 Hoa Giáp … mọi trường khí đều đồng đẳng hướng như nhau .
– Nếu không có Chấn – Lôi ( sấm ) thì chỉ chẳng có cái cái cơn co thắt, gào thét của bà mẹ mang thai, được tạo từ khí giao hòa âm – dương của đất và trời. Sâu trong đất ( âm ) lại có cái dương khí bốc, Trên trời cao ( dương ) có điện tích âm tụ. Cái Thiếu Âm giao thái với Thiếu Dương dần hoàn kết chu kỳ luân hồi của tạo hóa .
– Nếu không có Ly – Hỏa từ tâm của Trái Đất, thì dương khí của Mặt Trời có đủ sưới ấm vạn vật trong đêm, mùa đông .
Việc để tạo lên cảnh sắc vạn vật thiên nhiên, vạn vật sinh sôi, nảy nở ngày này đã trải qua quy trình đổi khác rất lớn, trong thời hạn dài. Chúng ta sống trong cảnh Khôn – Đất, quẻ Khôn này có 3 vạch âm đứt cũng sẽ biến dịch, sinh – thành – diệt là lẽ chung của Trời – Đất .

( Mã Đắc Khoa)

Các Bài viết cùng chủ đề :

Có thể bạn quan tâm
Alternate Text Gọi ngay
XSMB