Thái cực – Wikipedia tiếng Việt

Thái cực
Yin yang.svgMột đồ hình phổ cập của ” thái cực “

Thái cực (太極) là một thuật ngữ triết học Trung Hoa miêu tả tính toàn thể không hề phân chia của trạng thái hoàn toàn sơ khai hoặc để nói về tiềm năng vô tận, trái ngược với Vô cực (無極)- nghĩa là không có bắt đầu, không có kết thúc. Khái niệm “thái cực” chủ yếu được biết đến nhờ môn võ “Thái cực quyền” (太極拳).

Từ ghép tiếng Hoa ” thái cực ” có ” thái ” ( 太 ) nghĩa là ” rất lớn “, ” cực lớn ” ( một từ so sánh, gần nghĩa với từ ” đại ” ( 大 ) nghĩa là ” to “, ” lớn ” ) ; còn ” cực ” ( 極 ) có nghĩa là ” điểm tận cùng “, ” chỗ cao / xa nhất ” .

” Thái cực ” trong những văn bản Nước Trung Hoa[sửa|sửa mã nguồn]

Khái niệm “thái cực” được tìm thấy trong nhiều trước tác cổ của nhiều trường phái triết học Trung Hoa.

Zhang và Ryden lý giải sự thiết yếu về mặt bản thể học của khái niệm ” thái cực ” :

Bất cứ phe phái triết học nào nhấn mạnh vấn đề sự phân đôi, ví dụ như ” học thuyết âm – dương ” của triết học Trung Quốc đều cần một khái niệm để tích hợp chúng lại để bảo vệ cả hai nửa đó đều thuộc về một khoảng trống lý luận chung. Khái niệm ” thái cực ” được nói đến trong Kinh Dịch. Vào thời Nhà Tống, ” thái cực ” trở thành một khái niệm trừu tượng, gần như cùng nghĩa với khái niệm ” đạo “. ( 2002 : 179 )

Triết gia đạo Lão Trang Tử đã ra mắt khái niệm ” thái cực “. Trong sách ” Nội Thiên ” ( thế kỷ III trước Công Nguyên ), ông trái chiều ” thái cực ” với khái niệm ” lục cực ” ( 六極 ) :

Đạo có thuộc tính và biểu lộ, nhưng nó không có hành vi và hình dạng. Nó hoàn toàn có thể được luân chuyển, nhưng không hề thu nhận được. Nó hoàn toàn có thể được chớp lấy, nhưng không hề nhìn thấy. Từ gốc, từ nguồn, đã ở đó trước cả trời và đất, nó thật sự sống sót vĩnh viễn. Nó tạo hồn cho Chúa trời và quỷ dữ, nó sinh ra trời và đất. Nó ở trên đỉnh trời nhưng không cao, nó ở dưới đáy đất nhưng không sâu. Nó có trước trời đất, nhưng không xưa ; nó cổ hơn thời xưa, nhưng không già ” ( tr. Mair 1994 : 55 )

Hoài Nam Tử

[sửa|sửa mã nguồn]

Vào thế kỉ II trước Công nguyên, Hoài Nam Tử đề cập đến ” thái cực ” trong sách ” Chân nhân ” ( 真人 ). Ông cho rằng ” thái cực ” là cái toàn thể bao trùm bộ phận, ví dụ như âm và dương .

Fu-sui 夫煫 (nghĩa đen là “gương cháy”) gom lửa từ mặt trời; bậc phương chư (方諸- nghĩa đen là “gương trăng”, “phương” có nghĩa là “vuông”, “mặt đất”, cũng có nghĩa là “nghề”, “thuật”, “đạo đức”; “chư” là “những”, “các”) gom sương từ Mặt Trăng. Đó là những gì được chứa đựng giữa Trời và Đất, ngay cả một bậc thầy tính toán cũng không đếm được là bao nhiêu. Do vậy, dù đôi tay có thể cầm và nhận biết những thứ rất nhỏ, chúng không thể nắm giữ được ánh sáng của Mặt Trăng mặt trời. Chính là với bàn tay vươn ra nắm bắt (tức là với quyền lực của người ta) mà ta có thể đạt được những thứ thuộc về một phần nào đó của “thái cực”; ngay lúc đó, người ta có thể tạo ra cả nước lẫn lửa. Đó là bởi vì cả âm lẫn dương đều có cùng một chất khí, và chúng làm dịch chuyển nhau. (tr. Le Blanc 1985:120-1)

“Thái cực” cũng được nói đến trong phần “Hệ từ” (繫辭) bàn luận về Kinh Dịch, một phần đã được viết từ rất xưa, mà người ta cho rằng tác giả là vua Chu Văn Vương và Chu Công Đán.

Do đó, nó là dịch ở thời gian khởi đầu. Rồi nó phân thành lưỡng nghi ( 兩儀 ). Lưỡng nghi sinh tứ tượng ( 四象 ). Tứ tượng sinh bát quái ( 八卦 ). Bát quái quyết định hành động may rủi. May rủi tạo nên hàng loạt hành vi. ( tr. Wilhelm and Baynes 1967 : 318 – 9 )

Richard Wilhelm và Cary F. Baynes lý giải :

Định đề cơ bản của trạng thái khởi đầu sơ khai dựa trên đó mọi vật được sinh thành và sống sót chính là ” thái cực “. Sau này, những nhà tư tưởng Ấn Độ cũng dành tâm sức để lĩnh hội về trạng thái sơ khai này. Một trạng thái khác, ” vô cực ” – trạng thái khởi đầu tĩnh được diễn đạt bằng vòng tròn. Cùng với nó, ” thái cực ” được tượng trưng bằng vòng tròn phân đôi của ngày và đêm, âm và dương. Biểu tượng này cũng đóng vai trò quan trọng ở Ấn Độ và châu Âu. Tuy nhiên, bắt đầu, tính phân đôi của ” thái cực ” là một khái niệm lạ lẫm so với Kinh Dịch ; Kinh Dịch chỉ miêu tả về ” cực ” và ” đạo “. ” Đạo “, với nghĩa đen là ” con đường “, diễn đạt ” cái duy nhất “, nhưng ” con đường ” cũng hàm ý xấp xỉ, trái phải, trước sau ; do đó, ” đạo ” cũng ngầm miêu tả sự phân đôi của hai mặt trái chiều. ( 1967 : lv )

Hình “thái cực” của Chu Đôn Di
Triết gia đời Tống Chu Đôn Di ( 1017 – 1073 CE ) viết ” Thái Cực Đồ thuyết ” và đã trở thành hòn đá tảng so với thiên hà quan của những nhà nho phái ” Tống Minh “. Tác phẩm của ông tổng kết nhiều góc nhìn của đạo Phật Nước Trung Hoa và đạo Lão, cùng nhiều luận giải những khái niệm trừu tượng trong Kinh Dịch .Các thuật ngữ chính mà ông nói đến trong ” Thái Cực Đồ thuyết ” là ” thái cực ” và ” vô cực ” :

” Vô cực ” là chưa thành ” thái cực “. ” Thái cực ” hoạt động giải trí tạo ra dương, khi hoạt động đến số lượng giới hạn, nó trở nên tĩnh. Trong tĩnh, nó tạo ra âm, tới cực lớn, nó lại hoạt động giải trí. Động và tĩnh chuyển hóa, cái này là nền của cái kia. Khi âm và dương đã phân hóa, hai trạng thái Open. Sự chuyển hóa và phối hợp của âm và dương tạo ra kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Với ngũ hành, những thời kỳ đổi khác của khí được sắp xếp hòa giải, qua đó bốn mùa được tiếp nối. Ngũ hành đơn thuần là âm và dương, âm và dương chẳng qua chính là thái cực, thái cực có nền tảng từ vô cực. Do vậy, trong quy trình tạo ra ngũ hành, mỗi hành đều tiềm ẩn thực chất riêng của nó. ( tr. Adler 1999 : 673 – 4 )

Chu Hi mô tả “thái cực” là khái niệm đồng nhất với âm và dương, và nhấn mạnh:

” Thái cực ” không phải là vật. Vì vậy, cả so với cả Châu và Chu, ” thái cực ” là nguyên tắc âm khí và dương khí của song cực, chính là nguyên tắc cơ bản nhất, nguyên tắc tiên phong của thiên hà. ” Vô cực ” đến sau .

Khái niệm cốt lõi[sửa|sửa mã nguồn]

” Thái cực ” được hiểu là trật tự cao nhất hoàn toàn có thể nhận thức được, với nó, sự sống sót lưu chuyển. Nó rất gần nghĩa với khái niệm Đạo giáo : ” sự đảo ngược chính là sự di dời của đạo “. ” Thái cực ” tạo ra âm khí và dương khí : động tạo ra dương, khi dương lên đến cực lớn, nó chuyển hóa thành tĩnh. Trên nền tĩnh tại, thái cực tạo ra âm. Khi âm cực đại, lại chuyển hóa thành động. Động và tĩnh, trong vòng tuần hoàn đó, là nguồn gốc của nhau. Sự phân hóa giữa âm và dương được xác lập và hai trạng thái âm dương được thể hiện. Từ sự chuyển hóa của dương và sự phối hợp của âm, ” ngũ hành ” – kim, mộc, thủy, hỏa, thổ sinh ra. Khi ngũ hành phân hóa, chúng tạo ra sự hài hòa. Khi đã có sự hòa giải, 4 mùa Open. Âm và dương tạo ra vạn vật, và vạn vật lại liên tục tạo ra nhiều thứ khác ; quy trình này không khi nào dứt. ( Wu, 1986 )

Nguồn tìm hiểu thêm[sửa|sửa mã nguồn]

  • Adler, Joseph A. (1999). “Zhou Dunyi: The Metaphysics and Practice of Sagehood”, in Sources of Chinese Tradition, William Theodore De Bary and Irene Bloom, eds. 2nd ed., 2 vols. Columbia University Press.
  • Bowker, John (2002). “Religions.” Cambridge University Press.
  • Coogan, Micheal (2005). “Eastern Religions.” Oxford University press.
  • Chen, Ellen M. (1989). The Tao Te Ching: A New Translation and Commentary. Paragon House.
  • Cheng, Chung-Ying. (2006). “Journal of Chinese Philosophy” Blackwell Publishing. ISSN 0301-8121.
  • Gedalecia, D. “Excursion Into Substance and Function: The Development of the T’i-Yung Paradigm in Chu Hsi.” Philosophy East and West,” 24 (October, 1974), 443-451.
  • Le Blanc, Charles. (1985). Huai-nan Tzu: Philosophical Synthesis in Early Han Thought: The Idea of Resonance (Kan-Ying) With a Translation and Analysis of Chapter Six. Hong Kong University Press.
  • Mair, Victor H. (1994). Wandering on the Way: early Taoist tales and parables of Chuang Tzu. Bantam.
  • Needham, Joseph and Colin A. Ronan. (1978). The Shorter Science and Civilisation in China. Cambridge University Press.
  • Robinet, Isabelle. (1990). “The Place and Meaning of the Notion of Taiji in Taoist Sources Prior to the Ming Dynasty,” History of Religions 23.4: 373-411.
  • Robinet, Isabelle. (2008). “Wuji and Taiji 無極 • 太極Ultimateless and Great Ultimate”, in The Encyclopedia of Taoism, ed. Fabrizio Pregadio, Routledge, pp. 1057–9.
  • Wilhelm, Richard and Cary F. Baynes. (1967). The I Ching or Book of Changes. Bollingen Series XIX, Princeton University Press.
  • Wu, Laurence C. (1986). “Fundamentals of Chinese Philosophy” University Press of America. ISBN (perfect): 0-8191-5571-5 ISBN (cloth): 0-8191-5570-5
  • Zhang Dainian and Edmund Ryden. (2002). Key Concepts in Chinese Philosophy. Yale University Press.
Có thể bạn quan tâm
Alternate Text Gọi ngay
XSMB