QUẺ SỐ 38 – QUỐC VĂN CHU DỊCH – PHAN BỘI CHÂU



hotline tư vấn dịch vụ ( qua Zalo ) : 0817.505.493.
E-Mail : [email protected].
Nhóm nghiên cứu và điều tra huyền học sâu xa .

Bạn đang đọc: QUẺ SỐ 38 – QUỐC VĂN CHU DỊCH – PHAN BỘI CHÂU

QUẺ SỐ 38 – QUỐC VĂN CHU DỊCH – PHAN BỘI CHÂU

Dưới đây là lời giảng Quẻ số 38 – Quốc Văn Chu Dịch – Phan Bội Châu

QUẺ HỎA TRẠCH KHUÊ
Ly trên; Đoái dưới
Quẻ này là quẻ Hỏa Trạch Khuê. Đoài hạ cũng là Nội Đoài, Li thượng cũng là Ngoại Li. Li hỏa, Đoài trạch, nên tên quẻ đọc bằng Hỏa Trạch Khuê.
TỰ QUÁI
Tự quái: Gia đạo cùng tất quai, cố thụ chi dĩ Khuê, Khuê giả quai dã.
序卦: 家導則窮乖, 故受之以睽, 睽者乖也.
Ý sắp đặt thứ tự quẻ. Sau quẻ Gia Nhân tiếp lấy quẻ Khuê là vì cớ sao?
Gia đạo đã đến lúc cùng tất đến nỗi ngang chia lìa, vậy nên quẻ Gia Nhân tiếp lấy quẻ Khuê. Khuê, nghĩa là chống nhau, ý nghĩa, sở dĩ đặt tên quẻ bằng Khuê. Soán Truyện đã thích kĩ rồi, đây không cần phải giải thích nữa.
SOÁN TỪ
Khuê, tiểu sự, cát.
睽, 小事吉.
Người ở thời đại Khuê, tâm chí không đồng nhau, đường lối không chung nhau, nếu làm những việc lớn như quốc gia xã hội, thật không thể làm được. Duy theo ở thể quẻ, chỉ có hào Lục Ngũ âm nhu đắc trung ứng với Cửu Nhị dương cương đắc trung, ở về thời đại Khuê quai mà còn có người cương, nhu tương tế như thế.
Chúng Khuê mà bọn mình không Khuê thời làm những việc nhỏ thuộc về cá nhân, hay là một tiểu đoàn thể còn có thể tốt lành được, nên nói rằng: Tiểu sự, cát, nghĩa là chỉ làm việc nhỏ thời họa may được cát mà thôi.
PHỤ CHÚ: Đạo Dịch rất hay là biến Dịch. Càn thượng, Khôn hạ là Bĩ, đảo ngược lại Khôn thượng, Càn hạ thời là Thái.
Quẻ này Đoài hạ, Li thượng. Đoài là trạch, Li là hỏa, tính trạch thời ngầm xuống, tính hỏa thời bùng lên, trên chẳng tiếp với dưới, dưới chẳng thông lên trên, tính hai bên trái nhau thời tình hai bên cũng trái nhau nên thành ra quẻ Khuê, Khuê là xấu quá, xấu nhất trong Kinh Dịch, nhưng đảo trái lại, Li ở dưới, Đoài ở trên, Hỏa viêm thượng mà tiếp với Trạch, Trạch thủy ngậm xuống mà thông với Hỏa, tính tình liên lạc với nhau, công việc giúp đỡ cho nhau thời thành ra quẻ Cách.
Cách là một quẻ có công việc rất to trong Kinh Dịch, chúng ta xem lại hai quẻ ấy thời biết rằng: Còn Khuê thời không bao giờ làm nên Cách, mà đã muốn Cách thời trước phải chữa cái bệnh Khuê, nên Quái từ quẻ Khuê chỉ nói bằng tiểu sự cát mà Soán từ quẻ Cách lại nói rằng Thang, Võ cách mệnh. Than ôi! Đời còn Khuê quai li tán, dầu thánh nhân như Thang, Võ cũng làm gì nên cách mệnh đâu!
SOÁN TRUYỆN
Soán viết: Khuê, hỏa động nhi thượng, trạch động nhi hạ, nhị nữ đồng cư, kì chí bất đồng hành. Duyệt nhi lệ hồ minh, nhu tấn nhi thượng hành, đắc trung nhi ứng hồ cương, thị dĩ tiểu sự cát. Thiên địa khuê nhi kì sự đồng dã, nam nữ khuê nhi kì chí thông dã, vạn vật khuê nhi kì sự loại dã. Khuê chi thì dụng đại hĩ tai.
彖曰: 睽, 火動而上, 澤動而下, 二女同居, 其志不同行. 說而麗乎明, 柔進而上行, 得中而應乎剛, 是以小事吉. 天地睽而其事同也, 男女睽而其志通也, 萬物睽而其事類也. 睽之碑用大矣哉.
Soán viết: Khuê, hỏa động nhi thượng, trạch động nhi hạ, nhị nữ đồng cư, kì chí bất đồng hành.
Đây là lấy tượng quẻ thích nghĩa tên quẻ để hình dung tính cách Khuê, chữ khuê phản đối với chữ đồng; tính khác nhau, chí khác nhau, ở chung với nhau một chốn, tất cũng không xong làm chung một việc với nhau, tất cũng chẳng nên nên gọi bằng Khuê.
Theo về tượng quẻ thời Li là hỏa, tính hỏa khi đã phát động, tất bùng lên trên. Đoài là trạch, tính Trạch khi đã phát động, tất chảy xuống dưới; một bên đã động nhi thượng, thì không dính dấp gì đến dưới, một bên đã động nhi hạ, thì không dính dấp gì đến trên, đó là vì tính trái nhau mà thành ra Khuê.
Lại lấy bằng một tượng nữa, Đoài là thiếu nữ, Li là trung nữ, hợp Đoài, Li lại làm một quẻ, tượng là hai chị em ở chung trong một nhà, nhưng chí thú hai người vẫn khác nhau, chị gái út thời xu hướng về cha mẹ, chị gái giữa thời xu hướng về nhà chồng, hình thức bề ngoài vẫn là còn ở chung với nhau mà tinh thần bề trong thời hai người đi hai ngả, vì chí hướng khác nhau mà thành ra Khuê.
Tính đã khác nhau, chí đã khác nhau, dầu có đồng cũng là tạm thời, mà kết quả tất là li dị. Vậy nên đặt tên quẻ bằng Khuê.
Duyệt nhi lệ hồ minh, nhu tiến nhi thượng hành, đắc trung nhi ứng hồ cương, thị dĩ tiểu sự cát.
Bây giờ lại lấy quái đức, quái thể thích Quái từ. Theo về đức quẻ thời Đoài có đức duyệt, Li có đức minh, hòa duyệt mà nương tựa vào đức minh (Lệ: nương tựa).
Theo như thể quẻ trong quẻ có hào Lục Ngũ chất tuy âm nhu nhưng tấn lên mà ở ngồi trên, Lục Ngũ lại đắc trung mà thuận ứng với hào Cửu Nhị là hào dương cương.
Theo tượng quẻ, thể quẻ thì đủ những đức tốt ấy. Nếu làm việc lớn, chưa đến nỗi tuyệt đối không làm được, nhưng khốn nạn thay, ở thời đại mà thiên hạ đương còn Khuê quai, nhân tâm đương hoán tán, lấy gì làm nên việc lớn đâu, chỉ vì có đức tốt đã nói như trên, may vừa tiểu sự cát, cũng vừa đủ năng sự rồi.
Thánh nhân nói đến đây là muốn cho học giả phải tri thì, thì đã đến hồi Khuê quai thời thành tựu cũng chỉ ngần ấy mà thôi.
Thiên địa khuê, nhi kì sự đồng dã, nam nữ khuê nhi kì chí thông dã, vạn vật khuê nhi kì sự loại dã.
Khuê chi thì dụng đại hĩ tai.
Như trên kia nói thời thời đại Khuê, vẫn là xấu thiệt, nhưng Dịch đạo quý hay biến hóa. Nếu thấy thời đại Khuê mà chỉ cho thời đại xấu thời thánh nhân còn tác Dịch làm gì.
Vậy nay lại suy rộng cho hết lẽ hợp Khuê. Hợp Khuê, nghĩa là: Ở trong chốn khác nhau mà tìm cho ra lẽ sở dĩ hợp nhau, vật chất vẫn khác nhau mà vật lí lại hợp nhau, ở giữa Khuê mà xét cho ra lí đồng thời hiện ra được công dụng ở thời đại Khuê.
Thử xem ở thiên địa, trời bao giờ cũng thấy cao, đất bao giờ cũng thấy thấp, chẳng phải là thể khuê hay sao?
Nhưng mà dương khí thường hạ giáng mà giao với đất, âm khí thường thượng thăng mà giao với trời, trời đất hợp nhau mà nên công che chở. Thế là thể tuy khuê mà việc hóa dục vẫn đồng.
Lại xem bằng nam nữ, trai thuộc về hình dương, gái thuộc về hình âm, chẳng phải là chất khuê hay sao? Nhưng mà trai tất cầu hợp với gái, gái tất cầu hợp với trai, trai gái hợp với nhau mà thành công sanh dục, thế là chất tuy khuê mà chí tương cầu vẫn thông. Bây giờ lại xem ở vạn vật phi, tiềm, động, thực, muôn sắc nghìn hình, chẳng phải chủng khuê hay sao? Nhưng bao nhiêu giống bay, in nhau một cách bay, bao nhiêu giống ngầm, in nhau một cách ngầm, bao nhiêu động vật, in nhau một cách đội sừng mang lông, bao nhiêu giống thực vật, in nhau một cách khai hoa kết quả. Thế là chủng tuy khuê mà việc sinh hóa vẫn theo loài với nhau.
Xem các lẽ ấy thời biết rằng: Ở trong phạm vi khác nhau, tất cũng ngầm có một tâm lí đồng nhau.
Tìm cho ra cái đồng nhau mà giằng buộc liên kết hết thảy cái khác nhau, hợp ngàn vạn cái dị lại làm thành một cái đồng. Như thế, mới thấy được cái diệu dụng ở thì Khuê rất lớn lao rồi vậy, chẳng phải thánh nhân thời ai làm nên được.
PHỤ CHÚ: Soán Truyện ở mọi quẻ chỉ tán một chữ “thì” hoặc chữ “thì nghĩa” mà ở đây lại tán chữ “dụng” là vì cớ sao?
Bởi vì thì Khuê mà làm cho ra chẳng Khuê, mới là công việc lớn, xem ở câu “Khuê chi thì dụng đại hỉ tai” thời mới biết được thánh nhân trong thiên hạ, không thì nào là bất khả vi, biến hóa chuyển di chỉ cốt ở nơi chữ “dụng”. Chữ dụng là phương pháp “cứu thì” của thánh nhân mà cũng là thủ đoạn “tạo thì” của anh hùng.
ĐẠI TƯỢNG TRUYỆN
Tượng viết: Thượng hỏa hạ trạch, Khuê. Quân tử dĩ đồng nhi dị.
象曰: 上火下澤, 睽. 君子以同而異.
Trên Soán Truyện đã nói một cách dị mà đồng, bây giờ Tượng Truyện lại nói một cách đồng mà dị (Đồng nghĩa là chung đồng; dị nghĩa là khác riêng).
Quân tử xem ở tượng quẻ Khuê thấy được Li, Đoài chung nhau đồng một quẻ, nhưng mà Li hỏa thời tính viêm thượng, Đoài trạch thời tính tựu hạ, hai tính trái nhau, quân tử mới biết rằng: Lẽ trong thiên hạ, hễ trong lúc đại đồng mà vẫn có chốn nên độc dị. Xưa nay thánh hiền xử thế, theo về việc nhân sinh nhật dụng, vẫn đại đồng với thế tục, nhưng đến nhưng việc thế tục đã sai lầm thời thánh nhân không bao giờ đồng lưu hợp ô.
Cũng có việc thế tục không chịu làm mà một mình làm, cũng có việc thế tục thảy làm cả mà duy một mình không chịu làm, ấy là trong chốn đại đồng mà có chốn độc dị. Nghĩa ba chữ “đồng nhi dị”, thoáng xem qua như hình mâu thuẫn mà xem cho kĩ thời chân chinh đạo lí vẫn như thế. Có việc nên đồng mà đồng, có việc nên dị mà dị, hễ những việc đúng với thiên lí, thuận với nhân tình, thời dầu thánh nhân cũng như chúng nhân. Nếu không thế thời thành ra một hạng bất cận nhân tình, loạn thời trái lí, dầu có liêm như Trần Trọng Tử, tín như Vị Sinh mà có gì là hợp đạo lí đâu.
Còn đến khi dư luận hỗn hào, tục lưu ô trọc: Phàm những việc mà thế tục đồng xu đó, chính là những việc trái với thiên lí, nhân tâm. Thánh nhân ở chốn đó, tất phải nhất ý cô hành, một mình đi riêng một lối, dầu miệng thế chê cười cũng không kể.
Tức như thời Chiến Quốc, thiên hạ thảy xu phụ với Tần mà một mình ông Lỗ Trọng Liên nghĩa bất đế Tần, đành gieo thân bể Đông mà chết, đó chính là nghĩa độc dị.
Vì có độc dị, mới là thánh hiền. Nếu chẳng thế thời thành ra một hạng người xu thì trục tục, hùa với đời mà kiếm ăn, lấy gì làm quân tử nữa đâu.
Nên nói rằng: Quân tử dĩ đồng nhi dị.
Ba chữ “đồng nhi dị” khó giải thích cho hết nghĩa, trong một quốc gia, một xã hội, một nhân quần vẫn có lúc phải đồng nhi dị mà chính giữa bản thân một người cũng có lúc phải đồng nhi dị, tỉ như giữa một thân ông Y Doãn mà khi tựu Thang tựu Kiệt khác nhau; giữa một thân Đức Khổng Tử mà khi khứ Tề, khi khứ Lỗ khác nhau; ý nghĩa ba chữ “đồng nhi dị”, bao hàm rộng lớn như thế, duy người ta phải xét đạo lí cho tinh thấu, nhận kĩ nghĩa vụ cho rành rõi, cái nên đồng thời đồng mà không phải xu thì trục lị, cái nên dị thời dị mà không phải mua tiếng làm cao, như thế mới hợp đạo quân tử.
PHỤ CHÚ: Quẻ Khuê với quẻ Đồng Nhân là phản đối nhau. Thiên, hỏa hai tính hợp nhau thời thành quẻ Đồng Nhân. Tượng Truyện nói rằng loại tộc biện vật, nghĩa là phải tìm cho ra cái dị mới sắp đặt được nên cái đồng.
Hỏa, trạch, hai tính trái nhau thời thành ra Khuê. Tượng Truyện nói rằng đồng nhi dị, nghĩa là: Lựa chọn trong lúc đồng mà làm một cách dị. Thế mới biết rằng: đồng mà không đồng không phải là hỗn tạp; dị mà dị không phải là cuồng bạo.
Thánh nhân giảng đạo lí, bao giờ cũng giảng đạo lí sống, chẳng bao giờ giảng đạo lí chết; biết như thế thời học được Dịch.
HÀO TỪ VÀ TIỂU TƯỢNG TRUYỆN
Sơ Cửu; Hối vong, táng mã, vật trục, tự phục, kiến ác nhân, vô cựu.
初九: 晦亡, 喪馬, 勿逐, 自復, 見惡人, 無咎.
Sơ Cửu ở về đầu quẻ là bắt đầu ở về thời đại Khuê quai, Cửu lại sẵn có tính cương, ở vào địa vị dưới mà muốn hành động, tất nhiên hữu hối, nhưng may ở trên có hào Tứ là đồng đức mà ứng với mình, chính giữa hồi quai Khuê mà gặp được bạn đồng chí thời cái hối đó tất nhiên cũng vong được.
Tuy nhiên, tính cương là vẫn muốn đi lên mà khổ vì đường đời khấp khểnh, chúng bạn hiếm hoi, muốn đi mà không thể nào đi đặng, khác gì người đi đường mà mất quách ngựa đâu, chờ khi Cửu Tứ liên hợp với mình mà dắt dìu nhau đi, in như ngựa đã mất, không phải tìm đuổi mà tự nhiên ngựa trở về.
Táng mã là một mình Sơ thời khó đi; vật trục tự phục là lại gặp Tứ thời kết quả cũng đi được. Nhưng khốn nạn thay! Ở thì Khuê, người đồng chí với mình chẳng bao lăm mà kẻ dị tâm với mình thời quá nhiều; tính dương cương là vẫn muốn đi lên, nếu cự tuyệt hết những món ác nhân thời người thù với mình càng thêm nhiều mà hung họa e không tránh khỏi. Bây giờ nghĩ một cách toàn thân viện họa thời đối với những bọn ác nhân vẫn không bầy bạn với họ, nhưng cũng nên giả cách hẳn hiên với họ ở trước mặt. Thế thời không tội lỗi.
Hào từ đã nói hối vong, lại phải kiến ác nhân vô cựu, chính là khổ tâm của quân tử ở thì Khuê, mà theo về thì nghĩa cũng phải như thế, tức như Đức Khổng Tử mà không tránh Dương Hóa, Mạnh Tử
không cự Vương Hoan, thảy là đúng nghĩa ấy.
Tượng viết: Kiến ác nhân, dĩ tị cựu dã.
象曰: 見惡人, 以辟咎也.
Ác nhân vẫn không đáng kiến, nhưng ở vào thì Khuê thời cũng phải kiến ác nhân là cốt tránh cho nó khỏi thù oán mình mà thôi (Kiến nghĩa là phải tiếp mặt).
Cửu Nhị: Ngộ chủ vu hạng, vô cựu.
九二: 遇主于巷, 無咎.
Hào Cửu Nhị dương cương đắc trung, ứng với Lục Ngũ là âm nhu đắc trung. Nếu ở vào thì Thái thời có thua gì Cửu Nhị, Lục Ngũ quẻ Thái đâu, nhưng ở về thì Khuê thời nhân vật tuy đồng mà hoàn cảnh trái hẳn.
về thì khác thời âm dương vẫn ưa nhau, nhưng ở về thì Khuê thời cương, nhu lại có ý kiêng né nhau. Ngũ tuy là một hạng người trung chính, nhưng thấy Nhị cương cường e trái với tính mình, vì Ngũ là âm nhu nên không dám thân cận với Nhị.
Tuy nhiên, đương sự thế bây giờ mà Nhị, Ngũ còn đương Khuê cách thời công việc cứu Khuê chẳng hỏng hết hay sao?
Thánh nhân mới vẽ cho Cửu Nhị một cách ủy khúc cầu hợp nên nói rằng: Ngộ chủ vu hạng; hạng nghĩa là ngõ hẹp, cũng có nghĩa là đường tắt.
Cầu cho gặp ông chủ mà không vào cửa chính, rình mò len lỏi nhè nhịp gặp nhau ở chốn ngõ hẹp mà kết hợp với nhau, thiệt là khổ tâm ủy khúc mà cầu cho nên việc cứu Khuê.
Hào Ngũ đương vị nguyên thủ nên gọi bằng chủ. Ngộ là có ý tình cờ gặp nhau. Vu hạng là thí dụ bằng một cách khôn khéo, uốn nán, lựa nhịp rình cơ, cầu cho được hai bên tương đắc, chung nhau gánh việc thiên hạ.
Theo về chính lí thường đạo thời vẫn có ủy khúc ít nhiều, nhưng theo về thì nghĩa biến thông phải nên như thế, không có gì là tội lỗi.
PHỤ CHÚ: Đạo lí trong thiên hạ, chỉ có lẽ phải mà thôi mà lẽ phải lại thường phải tùy thì mà thay đổi. Ồng Y Doãn chờ vua Thang tam sính mới chịu ra; Đức Khổng Minh chờ Lưu Tiên Chúa tam cố mới chịu ra, nhưng Bách Lí Hề thời làm nghề chăn trâu mà cầu tiến thân với Tần Mục Công. NInh Thích giả cách đi hát giữa chợ để cầu cảm động được Tề Hoàn Công, cũng chỉ chung một đạo lí mà cơ quyền thủ đoạn có khác nhau, cho nên trong Dịch xử vào thì Khảm, dạy cho “nạp ước tự dũ”, xử vào thì Khuê, dạy cho “ngộ chủ vu hạng”, chính là việc đạt tiết của Thánh hiển, nhưng những hạng cố chấp thời bao giờ biết được nghĩa ấy (Đạt tiết: cầu cho đạt được khí tiết của mình).
Tả Truyện có câu rằng: Thái thượng đạt tiết, kì thứ thủ tiết 太上達節, 其次守節, nghĩa là bậc người tột cao mới đạt được tiết, còn thứ nữa, chỉ nên thủ tiết mình là được.
Tượng viết: Ngộ chủ vu hạng, vị thất đạo dã.
象曰: 遇主于巷, 未失道也.
Ngộ chủ mà làm bằng một cách ủy khúc, nhưng cầu cho gặp được người chính ứng với mình, cũng là nghĩa lí đương nhiên, chẳng phải là thất đạo vậy.
Lục Tam: Kiến dư duệ, kì ngưu xiết, kì nhân thiên thả tỉ, vô sơ hữu chung.
六三: 見輿曳, 其牛掣, 其人 天且劓, 无初有終.
Hào Lục ở vị Tam, bản thân đã bất chính, chính ứng với Thượng Cửu, Thượng vẫn cũng là bất chính, vì hai người là bạn chính ứng với nhau nên hết sức cầu hợp với nhau.
Nhưng khốn nạn thay! Ở vào thì Khuê Li mà Lục Tam lại ở xen vào giữa hai dương, muốn tiến lên theo hào Thượng mà mặt trước bị Tứ ngăn đón, mặt sau bị Nhị kéo dắt, công việc đi tới thiệt là khó ngăn éo le.
Lục Tam đương ở lúc bây giờ, còn kinh nghi sợ hãi, thấy những kẻ đón trước, người kéo sau mà chính giữa bản thân thời cố ráng cho lên được, xâu xé hồi lâu nên cũng bị giập đầu đổ máu; tượng như: Kiến dư duệ, kì ngưu xiết, kì phân thiên, thả tỉ.
Dư: cỗ xe; duệ: kéo lui lại, người kéo xe mình lui lại là chỉ vào hào Nhị; ngưu: con trâu kéo xe; xiết: cản không cho lên, người cản trâu lại không cho lên là chỉ vào hào Tứ; thiên: người bị hình chạm giữa mặt; tỉ: bị hình cắt mũi; kì nhân thiên thả tỉ: bản thân Tam bị thương.
Tam với Thượng, dầu bị Nhị, Tứ cách trở mà không hợp với nhau được, nhưng Nhị, Tứ là bọn tà tâm, tà bất thắng chỉnh, thời kết quả Tam với Thượng cũng được hòa hợp với nhau. Tổng chi, ở vào thì Khuê dầu có chính ứng mà hòa hợp, cũng gay go như thế.
Tượng viết: Kiến dư duệ, vị bất đáng dã, vô sơ hữu chung, ngộ cương dã.
象曰: 見輿曳, 位不當也, 無初有終, 遇剛也.
Hào Lục ở vị Tam: lại chen vào giữa hai dương nên hoàn cảnh khó khăn, đến nỗi thấy xe mình đi bị người khác kéo lại, bởi vì địa vị mình bất đáng đó vậy.
Vô sở hữu chung là lúc đầu tuy gay go, nhưng đến lúc cuối cùng cũng được gặp Thượng Cửu (Cương là chỉ vào Thượng Cửu).
Cửu Tứ: Khuê cô, ngộ nguyên phu, giao phu lệ, vô cựu.
九四: 睽孤, 遇元夫, 交孚, 厲, 無咎.
Hào Cửu ở vị Tứ, vị ở đã sai, đương giữa thì Khuê lại càng khó khăn, dưới không chính ứng mà lại chét vào giữa khoảng hai âm là người một mình đứng giữa thì Khuê.
Cô nghĩa là độc lập, ở thì Khuê mà lại độc lập, tất phải kiếm người đồng thanh đồng chí để cầu giúp đỡ với mình.
Người đó là ai? Chính là Sơ Cửu, Cửu với Cửu là đồng đức, Sơ với Tứ tương ứng, tất phải đem chí thành kết hợp với nhau thời hoàn cảnh dầu có nguy chăng, nhưng kết quả chắc không tội lỗi gì. Nguyên phu là chỉ vào hào Sơ. Nguyên nghĩa là lành lớn; phu: một người trai.
Sơ Cửu dương cương đắc chính là nguyên phu. Tứ ngộ hợp với Sơ là ngộ nguyên phu, chỉ duy chí thành kết hợp với nhau là giao phu, thời dầu tuy nguy mà kết quả cũng vô cựu.
Tượng viết: Giao phu, vô cựu, chí hành dã.
象曰: 交孚無咎, 志行也.
Hai hào dương cương kết hợp với nhau bằng một cách chí thành, ở thì Khuê mà có bạn quân tử như thế thời chẳng những vô cựu mà có lẽ lại phát triển được chí cứu thì của mình. Tượng Truyện ở đây là bổ túc ý nghĩa Hào từ, Hào từ chỉ nói vô cựu mà thôi.
Lục Ngũ: Hối vong quyết tông phệ phu, vãng hà cựu.
六五: 晦亡, 厥宗噬膚, 往何咎.
Lục Ngũ âm cư dương vị, ở vào thì Khuê lẽ nên hữu hối, nhưng vì Ngũ có đức trung mà ở dưới lại có hào Cửu Nhị dương cương trung ứng với mình nên được hối vong.
Sở dĩ được hối vong, không phải tài âm nhu như Ngũ mà làm được nên. Vì có tài dương cương như Cửu Nhị chịu làm một phe với mình, gắn chặt vào sâu giúp đỡ cho Ngũ. Vậy nên Ngũ tấn hành những việc gì thảy nhờ Nhị mà được hoàn thiện, còn có tội lỗi gì nữa. Chữ quyết như nghĩa chữ kì tông là phe đảng; quyết tông là chỉ vào hào Cửu Nhị; phệ nghĩa là cắn; phu nghĩa là thịt trong da; phệ phu nghĩa là cắn mà vào được sâu, thí dụ như: Nhị thâm nhập vào Ngũ, tình ý hai bên hợp đã dễ mà vào lại sâu nên nói rằng: Quyết tông phệ phu.
Tượng viết: Quyết tông phệ phu, vãng hữu khánh dã.
象曰: 厥宗噬膚, 往有慶也.
Tượng Truyện đây lại nói thêm nghĩa Hào từ cho rộng, trên kia chỉ nói vãng hà cựu, đức Thánh lại nói rằng may cho ở thì Khuê mà được lưỡng hiền tương tín. Nên nói thêm rằng: Nhị chịu kết hợp với Ngũ lại thâm nhập được một cách như phệ phu thời công việc tấn hành lại đươc phúc khánh nữa vậy.
PHỤ CHÚ: Ở vào thì Khuê quai, dầu quân tử với quân tử mà kết hợp với nhau cũng tất phải vừa ủy khúc, vừa khôn khéo, như Nhị, Ngũ thảy có đức trung vả lại chính ứng cùng nhau, nếu ở thì khác thời hai người ấy kết hợp với nhau là việc rất dung dị. Song thì Khuê quai đành phải tùy cơ làm ứng, cho nên Cửu Nhị nói “ngộ chủ vu hạng” đến Lục Ngũ có chữ “phệ phu”. Vu hạng tức là không phải đi thẳng vào ngay; phệ phu tức là có cách lựa cơ rình thế, mới biết rằng: Ở về thì Khuê thiệt không thể phân bì được như đời thái bình vậy.
Thượng Cửu: Khuê cô, kiến thỉ phụ đồ, tái quỷ nhất xa, tiên trương chi hồ, hậu thoát chi hồ, phỉ khấu hôn cấu, vãng ngộ vũ tắc cát.
上九: 睽孤. 見豕負涂, 載鬼一車, 先張之弧, 后說之弧, 匪寇婚媾, 往遇雨則吉.
Đọc Hào từ này, chẳng những đạo lí rất thần tình mà vân tự cũng li kì biến hóa, nếu Dịch ra cho hết lời hết ý, e làm nên một bộ đoản thiên tiểu thuyết.
Xin độc giả chịu khó nhận cho kĩ thời đã bổ ích về con đường xử thế, lại bổ ích về lối làm văn. Đây trước xin thích nghĩa chữ một.
Thỉ, con heo; phụ, đội; đồ, bùn; tải, chở; quỉ, ma quỉ; trương, giương lên; hồ, cái cung; thoát, cởí ra; khấu, thằng giặc; hôn cấu làm thông gia; vãng, từ đây sắp qua; ngộ vũ, đụng lấy mưa.
Bây giờ thích ý nghĩa toàn văn: Ở về thì Khuê là chính lúc nhân tình nghi kị nhau, dầu đến cha con, anh em cũng khó khỏi li tâm, li đức, huống gì những bầu bạn, phe phái với nhau.
Thượng Cửu này ở cuối cùng quẻ Khuê là Khuê chi cực, Khuê đã đến cực điểm thời chuyện nghi nhau, ghét nhau là rất tầm thường, huống gì xử vào hoàn cảnh Thượng Cửu này, thiệt là khốn khó muôn phần. Lấy một mình dương cương mà ở vào địa vị tối cao, ngó xuống bề dưới thời chắc không người nào tin mình cả, thiệt là Khuê quai mà lại cô độc, nhưng may thay, Thượng Cửu ở về thể Li, vẫn có tính minh sát. Vì tính minh sát thái quá nên đụng đâu nghi đó, tuy một người chính ứng là Lục Tam vẫn chẳng đáng nghi kị gì, nhưng khổ vì Lục Tam ở vào giữa nhị dương nên khiến cho Thượng Cửu nghi nhị dương mà nghi luôn đến Lục Tam. Đầu thời nghi nhị dương dỗ mất Lục Tam, đoạn rồi sợ Lục Tam theo nhị dương mà làm hại mình; nghi tâm sinh quỷ, nhận trắng làm đen, trong mắt Thượng Cửu ở lúc bây giờ thấy Tam kia in như hình con heo đội một cục bùn, nào có biết đâu người ta vẫn trong sạch mà mình nhận lầm làm dơ bẩn.
Chẳng những thế mà thôi, vì nghi sinh ghét, vì ghét mà lại càng thêm nghi, thậm chí giữa bạch nhật thanh thiên mà chụp bóng bắt hơi, lấy không làm có, hễ thốt nghĩ đến Tam thời xem như chở ma quỷ đầy một xe để làm ma trùng bắt mình. Ôi thôi! Lẽ trong thiên hạ thị hay phi, không hay có, đến lúc cùng tắc biến, sẽ có một ngày nước rặc đó trôi, phương chi Thượng là người vẫn sẵn tính cương minh mà tạm lại một người nhu thuận.
Một cặp bạn chính ứng ấy tất có một ngày mù nghi tan sạch, lẽ chính rõ ràng, tuy vì hoàn cảnh bùng bịt mà ghét giận nhau trong tạm thời, đến khi chủ nghĩa của hai bên đã rõ ràng, tâm lí hiểu thấu nhau, sắc giận sẽ hóa sắc vui.
Tượng như trước thời Thượng toan giương cung bắn Tam, sau lại cởi dây cung mà tạ lỗi cùng Tam rằng: Ủa ủa, chị Tam ơi! Chị thiệt không bao giờ có lòng làm hại tôi mà tôi quyết không phải là một người làm hại chị, chẳng qua tôi với chị cầu làm vợ chồng mà thôi.
Từ đó sắp đi, ý nghi kị đã hết sạch sành sanh, âm dương hòa hợp, kề vai chung cật mà cùng nhau gánh công việc cứu thì Khuê. Khuê cực mà hòa hợp với nhau, cái cảnh tượng vui vầy, cái tình ý đằm thắm, in như nắng lâu ngày gặp được trận mưa ngọt, tốt lành còn gì hơn.
PHỤ CHÚ: Đọc Hào từ này phải chia làm ba đoạn, ba câu trên là thuộc về đoạn trước hai bên đương nghi kị nhau, thần hôn mê loạn, lấy không làm có nên nỗi không phải heo mà thấy là heo; không phải quỷ mà thấy là quỷ, chính là lúc Khuê chi cực. Từ câu tiên trương chi hồ sắp xuổng ba câu là thuộc về đoạn giữa, lúc đó sắp đi, hết tương nghi mà bước vào tương tín, nên trước thời dương cung mà sau thời lột dây cung, biết ác cảm là sự huyền không mà ái tình mới là sự thực, đó là Khuê chung mà đã sắp sửa hợp. Vãng, ngộ vũ tác cát là thuộc về đoạn cuối, lòng Khuê nghi đã hết sạch mà tình hòa hợp càng đàm thắm, chính là cùng tắc biến, biến tắc thông, suốt cả bộ Dịch thảy đều có ý như thế.
Chẳng những cá nhân với cá nhân, dầu đến quốc gia, xã hội, hễ gặp thì Khuê quai thời tất có tình hình như Thượng Cửu với Lục Tam; chỉ cần thứ nhất là hai bên thảy đều đắc chính cả, phi bất Dịch thị chính tất thắng tà, tất nhiên cũng tiền hung hậu hỉ, người ta xử thế xin cố” công tìm bạn chính ứng mà chơi, hoàn cảnh thì Khuê, chúng ta không phải sợ.
Tượng viết: Ngộ vũ chi cát, quần nghi vong dã.
象曰: 遇雨之吉, 群疑亡也.
Âm dương hòa với nhau mà nên mưa, cương, nhu hợp với nhau mà được cát, Hào từ nói rằng: “Vãng ngộ vũ tắc cát”, nghĩa là, những tình trạng hồ nghi huyền hoặc như trước kia thảy tiêu mất ráo.
PHỤ CHÚ: Quẻ Khuê là một quẻ rất xấu trong Kinh Dịch, nhưng đến Hào từ, Tượng Truyện thời tuy có cay co lúng túng, nhưng đến kết quả thời không có gì xấu. Hào Sơ thời hối vong mà vô cựu; hào Nhị, hào Tứ thời thảy được vô cựu; hào Tam thời được hữu chung; hào Ngũ thời được hối vong. Tượng Truyện lại có câu: Vãng hữu khánh; hào Thượng Cửu thời được chữ cát mà Tượng Truyện lại thúc kết bằng câu: Quần nghi vong dã. Đó mới biết, duyên hợp sinh ở giữa lúc li, cơ phúc nấp ở giữa hồi họa.
Chúng ta chỉ lo không người tạo thời thế, chứ đừng lo không thời thế tạo mình, có lẽ đâu Khuê hoài, Khuê mãi mà không có một ngày thông thái rư ?

Trên đây là toàn bộ diễn giải để bạn đọc tham khảo. Để được tư vấn đầy đủ vui lòng liên hệ TẠI ĐÂY.
Các cách diễn dịch khác:

Thảo luận cùng chúng tôi :

Fanpage Tử Vi Cổ Học

Gửi email

Chat với Tư Vấn Cổ Học

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM X

Tử Vi Cổ Học nhận luận giải sâu xa lá số tử vi ( có tính phí ), vui vẻ liên hệ email [email protected], SĐT / Zalo : 0817.505.493 hoặc Facebook
top

Có thể bạn quan tâm
Alternate Text Gọi ngay
XSMB