64 quẻ Dịch phân bổ vào bát cung – https://suachuatulanh.org – Hồng Vận Lâu – Nơi Tinh Hoa Hội Tụ
64 quẻ Dịch và sự phân chia vào 8 cung
Các Phần Chính Bài Viết
Tương truyền vua Phục Hy về sau lấy những quẻ đơn trong bát quái chồng lên nhau để có 64 quẻ kép. Mỗi quẻ kép gồm hai quẻ đơn. Quẻ đơn ở trên gọi là ngoại quái, quẻ đơn ở dưới gọi là nội quái. Mỗi quẻ kép gồm 6 vạch, gọi là 6 hào. Các hào được tính thứ tự từ dưới lên trên. Sự phân loại những quẻ Dịch trình diễn sau này dựa vào Ngũ hành mà không dựa vào sự quản lý và vận hành như Chu Dịch .
I. TÊN QUẺ
Các quẻ trong 64 quẻ kép đều có tên, tên gọi tùy theo những quẻ đơn đã cấu trúc thàn quẻ kép này. Nhưng không gọi là Càn, Đoài, Li … Thật ra tên cũng dựa vào lời và tượng của bát quái. Lúc vận dụng Ngũ hành thì tên của Quẻ cũng có dùng nhưng theo những tượng riêng, mà cũng không có ảnh hưởng tác động nhiều đến ngũ hành những hào trong quẻ .
Quẻ Càn gọi là Thiên, Đoài gọi là Trạch, Li gọi là Hỏa, Chấn gọi là Lôi, Tốn gọi là Phong, Khảm gọi là Thủy, Cấn gọi là Sơn, Khôn gọi là Địa. Tên đọc từ quẻ trên xuống quẻ dưới. Nhưng quẻ trên là Càn, dưới là Tốn thì đọc :
Càn
Thiên Đọc là Thiên Phong Cấu Tốn Phong Cấu là tên tắt của Quẻ, gọi vừa đủ phải là Thiên Phong Cấu .
Càn Thiên Đọc là Thiên Sơn Độn Cấn Sơn Riêng những quẻ có quẻ trên và quẻ dưới giống nhau gọi là trùng quái thì có cách gọi tên khác. Những quẻ này gọi là quẻ Bát Thuẩn. Như xấp xỉ đều Càn gọi là Bát Thuần Càn hay Càn vi Thiên. Trên dưới đều là Khôn thì tên gọi là Bát Thuần Khôn hay Khôn vi Địa. Nhưng cũng thường gọi tắt những quẻ Bát Thuần, như Bát Thuần Càn chỉ gọi là Càn, Bát Thuần Khảm chỉ gọi là Khảm … cũng dễ lầm với quẻ thuộc Bát Quái. Tên của 64 quẻ sẽ được kê ở phần cuối của chương này .
II. ĐỘNG BIẾN 動 變
Các quẻ Dịch liên hệ với nhau do sự động biến của những hào. Hào có hào Dương, hào Âm. Khi động thì hào Dương biến thành Âm, Âm biến thành Dương. Quẻ này biến sang quẻ khác cũng vì những hào trong quẻ động. Động tĩnh là phần trọng điểm trong Dịch, sẽ đề cập trong những chương sau .
III. NGŨ HÀNH 五 行
64 quẻ Dịch dựa vào bát quái mà phân thành 8 nhóm gọi là Bát cung. Đứng đầu mỗi cung là quẻ trùng quái, tức là quẻ Bát Thuần. Các quẻ ở trong mỗi cung có số thứ tự từ 1 đến 8. Quẻ đứng đầu hay quẻ số 1 của mỗi cung là quẻ Bát Thuần, những quẻ tiếp nối là do động biến của những hào trong quẻ Bát Thuần .
Ví dụ : Quẻ Bát Thuần Càn ( trên Càn dưới Càn ) đứng đầu 8 quẻ thuộc cung Càn :
1. Bát thuần CÀN 2. Động hào sơ biến Thiên Phong CẤU 3. Động thêm hào nhị biến Thiên Sơn ĐỘN 4. Động thêm hào tam biến Thiên Địa BỈ 5. Động thêm hào tư biến Phong Địa QUAN 6. Động thêm hào ngũ biến Sơn Địa BÁC 7. Quẻ Du Hồn quay trở lại động hào tứ biến Hỏa Địa TẤN 8. Quẻ Quy Hồn động lại những hào trước biến Hỏa Thiên ĐẠI HỮU Như vậy cung Càn gồm 8 quẻ là Càn, Cấu, Độn, Bỉ, Quan, Bác, Tấn và Đại Hữu .
Các cung khác cũng phỏng theo như thế .
8 cung của quẻ Dịch lấy tên quẻ đầu mà gọi gồm có :
Cung Càn thuộc Kim
Cung Đoài thuộc Kim
Cung Li thuộc Hỏa
Cung Chấn thuộc Mộc
Cung Tốn thuộc Mộc
Cung Khảm thuộc Thủy
Cung Khôn thuộc Thổ
Quẻ Đầu của mỗi cung là quẻ Bát Thuần, bất kể ở cung nào quẻ thứ 7 đều gọi là quẻ Du Hồn và quẻ thứ 8 gọi là quẻ Quy Hồn. Quẻ thuộc cung nào thì mang ngũ hành của cung đó. Ngũ hành của những hào trong quẻ thì tùy thuộc vào Can Chi của mỗi hào. Như hào Tí thì thuộc Thủy, hào Ngọ thì thuộc Hỏa … muốn rõ hãy xem chương Ngũ Hành. Quẻ đơn ( gồm 3 hào ) có quẻ Dương, có quẻ Âm. Quẻ Dương là Càn, Khảm, Cấn, Chấn ; quẻ Âm là Tốn, Li, Khôn, Đoài. Chống quẻ đơn lên nhau thành 6 hào. Với quẻ Dương dù ở nội quái hay ngoại quái ( tức ở trên hay dưới ), Can Chi an vào theo chiều thuận, tức chiều từ hào sơ đến hào lục. Với quẻ Âm thì an Can Chi theo chiều nghịch, tức chiều từ hào lục đến hào sơ. Quẻ dương thì an Địa Chi dương ( Tí, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất ), quẻ âm an Địa Chi âm ( Sửu, Mão, Tị, Mùi, Dậu, Hợi ) .
Định Can Chi cho những hào trong quẻ cũng có quy luật nhất định, nhưng người dùng quen thì vận dụng mà chẳng cần hiểu nguyên do. Như Địa Chi lao lý cho những hào dựa vào sự phối hợp của những quẻ và tương hợp của những Địa Chi. Như Càn cha hợp với Khôn mẹ, nên hào sơ của Càn ở nội quái là Tí, thì hào sơ của Khôn ở ngoại quái là Sửu, vì Tí và Sửu tương hợp ; hào sơ của Khôn ở nội quái là Mùi thì hào sơ của Càn ở ngoại quái là Ngọ vì Mùi và Ngọ tương hợp. Hoặc Chấn ( trưởng nam ) hợp với Tốn ( trưởng nữ ) nên ở nội quái hào sơ của Chấn là Tí thì hào sơ của Tốn là Sửu, do Tí và Sửu tương hợp …
Ta hoàn toàn có thể kể ra như sau :1. CÀN ( kim – dương )
Nội quái khởi Giáp Tí
Ngoại quái khởi Nhâm Ngọ
Địa chi lần lượt từ hào sơ đến hào lục là : Tí, Dần, Thì, Ngọ, Thân, Tuất :
Hào lục Tuất Hào ngũ Thân Hào tứ Ngọ Hào tam Thìn Hào nhị Dần Hào sơ Tí Vì quẻ Bát Thuần Càn hợp bởi hai quẻ Càn của bát quái nên đều là hai quẻ dương, nên địa chi chỉ an theo chiều thuân từ hào sơ ( nhất ) đến hào lục. Quẻ dương nên chỉ dùng địa chi dương, khởi từ Tí, tiếp theo là Dần rồi đến Thìn, Ngọ, Thân và Tuất .
Ở phần cuối chương ta sẽ kê không thiếu 64 quẻ với Can Chi .2. ĐOÀI ( kim – âm )
Nội quái khởi Đinh Tị
Ngoại quái khởi Đinh Hợi
Địa Chi lần lượt từ hào sơ đến hào lục là : Tị, Mão Sửu, Hợi, Dậu, Mùi
Hào lục Mùi Hào ngũ Dậu Hào tứ Hợi Hào tam Sửu Hào nhị Mão Hào sơ Tị Để ý Đoài là quẻ âm nên Địa Chi đi theo chiều nghịch từ Tị đến Mão, đến Sửu. Các cung về sau cứ phong thế mà an .
3. LI ( hỏa – âm )
Nội quái khởi Kỷ Mão
Ngoại quái khởi Kỷ Dậu
Địa Chi lần lượt từ hào sơ đến hào lục là : Mão, Sửu, Hợi, Dậu, Mùi, Tị
4. CHẤN ( mộc – dương )
Nội quái khởi Canh Tí
Ngoại quái khởi Canh Ngọ
Địa chi lần lượt từ háo sơ đến hào lục là : Tí, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất .
5. TỐN ( mộc – âm )
Nội quái khởi Tân Sửu
Ngoại quái khởi Tân Mùi
Địa Chi lần lượt từ hào sơ đến hào lục là : Sửu, Hợi, Dậu, Mùi, Tị, Mão
6. KHẢM ( thủy – dương )
Nội quái khởi Mậu Dần
Ngoại quái khởi Mậu Thân
Địa Chi lần lượt từ hào sơ đến hào lục là : Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất, Tí
7. CẤN ( thổ – dương )
Nội quái khởi Bính Thìn
Ngoại quái khởi Bính Tuất
Địa Chi lần lượt từ hào sơ đến hào lục là : Thìn, Ngọ, Thân, Tuất, Tí, Dần .
8. KHÔN ( thổ – âm )
Nội quái khởi Ất Mùi
Ngoại quái khởi Quý Sửu
Địa Chi lần lượt từ hào sơ đến hào lục là : Mùi, Tị, Mão, Sửu, Hợi, Dậu .
IV. LỤC THÂN 六 親
Lục thân là sau loại liên hệ gần gũi với Ta, tức Phụ Mẫu (Cha mẹ), Huynh Đệ (Anh em), Thê Tài (Vợ và tiền bạc), Tử Tôn (Con cháu), Quan Quỷ (Công danh và tai họa)1. Ý nghĩa của Lục Thân sẽ biến đổi tùy hoàn cảnh mà quẻ Dịch được vận dụng, sẽ trình bày rõ ở phần Dụng Thần. Lục Thân vì hàm chưa ý nghĩa sinh khắc nên rất thích ứng để phối hợp với Ngũ hành.
Lấy Ta làm gốc. Phụ Mẫu là người sinh ra Ta ( sinh Ta ), Huynh Đệ là người sinh ra cùng Ta ( cùng Ngũ hành với Ta ), Thê Tài là người và vật mà ta điều khiển và tinh chỉnh, sử dụng ( Ta khắc ), Quan Quỷ là những việc ảnh hưởng tác động đến ta ( khắc Ta ), Tử Tôn là những kẻ do ta sinh ra ( Ta sinh ). Thay vì đưa Ngũ hành vào những hào trong quẻ thì người xưa đã dùng Lục Thân để thay thế sửa chữa. Muốn biết Ta thuộc hành nào phải xem quẻ mà ta coi thuộc vào Cung nào, rồi lấy hành của cung đó. Rồi từ đó định sinh khắc cho những hào mà đưa Lục Thân vào. Ví dụ : Quẻ Thiên Phong Cấu thuộc cung Càn ( kim ) : nên
Ta thuộc Kim
Huynh đệ vì cùng hành, nên Kim là Huynh Đệ .
Thổ sinh Kim, nên Thổ là Phụ Mẫu .
Kim sinh Thủy, nên Thủy là Tử Tôn
Kim khắc Mộc, nên Mộc là Thê Tài .
Hỏa khắc Kim, nên Hỏa là Quan Quỷ .
Tuất Thổ – Phụ Mẫu Thân Kim – Huynh Đệ Ngọ Hỏa – Quan Quỷ Dậu Kim – Huynh Đệ Hợi Thủy – Tử Tôn Sửu Thổ – Phụ Mẫu ( Thiên Phong Cấu )
Chính vì Lục Thân hàm nghĩa sinh khắc nên những môn Thuật số ở Trung Quốc đều sử dụng Lục Thân để định sinh khắc thay vì dùng Ngũ Hành .V. PHỤC THẦN 伏 神
Không phải quẻ Dịch nào cũng vừa đủ Lục Thân, có quẻ thiếu Phụ Mẫu, có quẻ thiếu Thê Tài, thiếu Tử Tôn, thiếu Huynh Đệ hay Quan Quỷ, có nghĩa những hào ở trong quẻ hoàn toàn có thể khi thiếu Kim, khi thiếu Mộc … Để giải đoán quẻ Dịch người ta cần rất đầy đủ những loại Ngũ Hành, vì vậy tìm cách đưa những ngũ hành còn thiếu vào trong Quẻ. Phần Lục Thân thiếu sót đó vì không Open mà nằm lẫn trong những hào khác, nên được gọi là Phục Thần, với « Phục » có nghĩa « nằm nép ». Muốn tìm những phần còn sót trong Lục Thân ta phải địa thế căn cứ quẻ Bát Thuần đứng đầu mỗi Cung mà định, vì Quẻ Bát Thuần là quẻ có vừa đủ những phần trong Lục Thân .
Ví dụ quẻ Thủy Lôi Truân không có hào Thê Tài, quẻ này thuộc cung Khảm nên phải địa thế căn cứ vào quẻ Bát Thuần Khảm để tìm xem hào Thê Tài « phục » ở dưới hào nào .
Thuần Khảm Thủy Lôi Truân Tí Huynh Đệ Tí Huynh Đệ Tuất Quan Quỷ Tuất Quan Quỷ Thân Phụ Mẫu Thân Phụ Mẫu Ngọ Thê Tài Thìn Quan Quỷ ( phục Thê Tài – Ngọ Hỏa ) Thìn Quan Quỷ Dần Tử Tôn Dần Tử Tôn Tí Huynh Đệ Quẻ Truân thiếu hào Thê Tài nên lấy hào Thê Tài của quẻ Bát Thuần Khảm là Ngọ Hỏa đến phục dưới hào tam của mình là Quan Quỷ – Thìn Thổ. Hào Thê Taig gọi là Phục Thần, hào Quan Quỷ Thìn Thổ gọi là Phi Thần .
VI. THẾ ỨNG 世 應
- Tính Chất : Quẻ Dịch nào cũng có hào Thế và hào Ứng. Hào Thế nắm dữ thế chủ động của Quẻ, mang Lục Thân nào thì Lục Thân đó nắm vị thế chánh yếu. Nằm ở vị trí nào thì vị trí đó chiếm phần quan trọng hơn. Như nằm ở hào Ngũ thì hào này lợi thế hơn những hào khác, ở hào Tam thì hào Tam quan trọng nhất ví dụ điển hình. Ứng là hào ở vị trí tương hợp của hào Thế. Thông thường trong một quẻ kép thì hào Sơ ứng với hào Tứ, hào Nhị ứng với hào Ngũ, hào Tam ứng với hào Lục, và ngược lại. Thành Thế ở hào Sơ thì Ứng ở hào Tứ, Thế ở hào Nhị thì Ứng ở hào Ngũ … Khi vận dụng những hào trong quẻ thì Thế là mình, là người xem quẻ, còn Ứng là người khi xem tương quan giữa ta và người. Xem cho những người không có quan hệ thân thích, như kẻ hợp tác, kẻ đối phương … cũng dùng hào Ứng để thay thế sửa chữa cho họ .
- Vị trí : Ngày xưa người ta định vị trí của Thế ứng bằng khẩu khuyết thuộc lòng chẳng cần hiểu vì sao như sau :
八卦之首世六當
以下初爻輪下揚
遊魂入宮四爻立
歸魂入卦三爻詳
Bát quái chi thủ Thế Lục dương
Dĩ hạ sơ hào luân hạ dương
Du hồn nhập cung Tứ hào lập
Quy hồn nhập Quái tam hào tường
Có nghĩa : « Quẻ đứng đầu 8 quẻ thuộc một cung ( tức quẻ Bát Thuần ) thì Thế ở hào Lục. Sau đó Thế lần lượt ở hào Sơ mà tính dần lên ( tức hào Nhị, hào Tam, hào Tứ, hào Ngũ ). Quẻ Du Hồn Thế ở hào Tứ, Quẻ Quy Hồn Thế ở hào Tam .
Ví dụ : Cung Càn gồm 8 quẻ : Quẻ đầu là Bát Thuần Càn, quẻ 2 là Cấu, quẻ 3 là Độn, quẻ 4 là Bỉ, quẻ 5 là Quán, quẻ 6 là Bác, quẻ Du Hồn là Tấn, quẻ Quy Hồn là Đại Hữu, thì Càn có Thế ở hào Lục, Cấu có Thế ở hào Sơ, Độn có Thế ở hào Nhị, Bỉ có Thế ở hào Tam, Quán có Thế ở hào Tứ, Tấn có Thế ở hào Tứ, Bác có Thế ở hào Ngũ, Đại Hữu có Thế ở hào Tam .
Ở những cung khác như Đoài, Li, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn cũng vận dụng tương tự như như vậy
Học thuộc lòng khẩu khuyết thì xác lập vị trí của Thế Ứng khá nhanh, nhưng như trước kia đã đề cập, Vị trí của những quẻ trong mỗi cung tùy thuộc số hào động lần lượt từ hào sơ mà tính lên của quẻ Bát Thuần. Như quẻ Bát Thuần Càn động hào Sơ thì biến thành quẻ Thiên Phong Cấu, động thêm hào Nhị biến thành Thiên Sơn Độn … và quẻ Cấu có Thế ở hào Sơ, quẻ Độn có Thế ở hào Nhị … Vì thế muốn tìm vị trí của Thế ở tại bất kể một quẻ nào đó, ta chỉ cần động ngược trở lại, ngang đến hào nào mà quẻ trở thành quẻ Bát Thuần thì không những biết vị trí của Thế mà còn biết quẻ thuộc vào cung nào nữa .
Ví dụ : Quẻ Phong Lôi Ích
Động hào sơ biến thành Động thêm hào nhị biến thành Động thêm hào tam biến thành bấy giờ đã trở thành quẻ Bát Thuần Tốn. Cứ động cho đến khi trở thành quẻ Bát Thuần thì ngưng .
Vậy quẻ Phong Lôi ích thuộc cung Tốn, có Thế ở hào Tam ( vi động đến hào Tam thì trở thành quẻ Bát thuần ). Ngoài ra cứ phỏng như thế mà tìm thì khá nhanh. Quẻ Quy Hồn cũng dễ nhận ra vì Nội quái và Ngoại quái là hai quẻ có hào Nhị âm khí và dương khí trái nhau. Như Khôn ( hào nhị âm ) và Khảm ( hào nhị dương ), nên quẻ Địa Thủy ( Khôn + Khảm ) Sư hay Thủy Địa ( Khảm + Khôn ) Tỉ đều là quẻ Quy Hồn .VII. PHÉP CHIÊM QUÁI
Chiêm quái là tạo thành quẻ Dịch để dựa vào quẻ mà luận đoán. Có một sự liên hệ giữa số lượng và vấn đề mà người muốn xem, làm thế nào tạo được số để lập nên quẻ. Bói về Tiên thiên thì nhờ hiện tượng kỳ lạ trời đất, hay vấn đề bất chợt xảy ra trước mắt …, xem thuộc vào quẻ nào trong bát quái để có một quẻ, cộng thêm năm tháng ngày giờ ví dụ điển hình để có quẻ thứ hai. Bấy giờ chồng hai quẻ để lập quẻ kép. Bói hậu thiên phải tìm cách tạo số, để từ đó lập nên quẻ Dịch .
Bốc Dịch là loại bói Hậu thiên, dùng cách tạo quẻ hoặc tạo số rồi từ số đưa đến quẻ. Cách thức đổi khác tùy thời, nhưng chỉ phân thành hai loại :
Ngày xưa bói bằng cây xanh thi, dùng 50 cây xanh thi phân ra mà lập quẻ. Cách phân tách hai nhóm để lập nội quái và ngoại quái. Nội quái trước, ngoại quái sau. Lối này xưa vốn phức tạp và rắc rối và mất thì giờ, không tiện để thầy bói hành nghề trong dân gian. Nên về sau chuyển thành lối bói “ Phệ trúc ”, tức dùng thẻ tre. Vì thời xưa cỏ thi cũng được bọc lụa đỏ, nên thẻ tre thường được sơn đỏ để tăng dương khí .
Tương truyền đến thời Quỉ Cốc Tử đã dùng ba đồng xu tiền để bói thay cho cỏ thi. Một đồng xu tiền trong vuông ngoài tròn, một mặt có chữ một mặt trơn. Mặt trơn là là mặt sấp ( S ) tức Dương, mặt có chữ là mặt ngửa ( N ) tức Âm. Một lần gieo quẻ gồm 3 đồng xu tiền. Trong Dịch học thì “ thiểu số thống trị đa phần ” [ ^ 2 ] nên gieo ra 3 đồng xu tiền có hai mặt giống nhau thì kể mặt thứ ba. Như SSN thì kể N, NNS thì kể S. Nếu SSS thì kể S nhưng toàn Dương mà không có Âm thì hào này là động, tựa như NNN thì kể N nhưng toàn Âm không Dương nên hào này động. Thường thầy bói kiếm ba đồng xu tiền giống nhau tức cùng một loại tiền và cùng một niên hiệu, và đồng xu tiền này lấy trong kho chưa được lưu dùng trên thị trường .
- Về gieo quẻ thì cần thành tâm. Đi bói thì thầy bắt phải khấn cầu như : Trời bảo sao thì Thần chỉ cho biết. Nay tôi tên họ …. có việc … không biết hung cát ra sao, xin chỉ cho biết. Sau đó thầy xem mới gieo quẻ 6 lần để có sáu hào, gieo từ hào sơ đến hào lục. Thông thường có một mai rùa lớn để ngửa, thầy bỏ 3 đồng xu tiền vào trong một mai rùa nhỏ còn cả yếm, Xong bịt hai đầu để lắc cho đều rồi mở một đầu để 3 đồng xu tiền xổ vào mai rùa lớn. Thầy bói thường mù nên lấy tay mà rờ xem ngửa hay sấp, cứ mặt có chữ là ngửa, còn không chữ là sấp. Gieo lần đầu sẽ có hào sơ. Nếu dương thì được vạch đơn __ mà âm thì vạch kép _ _ Nếu 3 Sấp tức vạch trùng O, mà 3 Ngửa tức vạch giao X mà giao và trùng thì hào sẽ động .
Sau khi gieo 3 lần thì tạo được một quẻ đơn là nội quái, lại khấn tiếp là đã được quẻ gì đó, chưa quyết được hung cát, cầu xin gieo ba lần nữa để thành một quẻ mà đoán. Rồi gieo thêm ba lần nữa tạo thành ngoại quái. Tổng cộng có 6 hào âm khí và dương khí cùng tĩnh và động .
Với lối dùng đồng xu tiền, người gieo phải là thầy bói, không phải là người xem. Vì tâm thầy thường không động trước vấn đề của người xem cần hỏi .
Với lối dùng 3 đồng xu tiền gieo quẻ hoàn toàn có thể động nhiều hào, khiến người đoán dễ sinh bồn chồn, nhưng vấn đề hoàn toàn có thể suy đoán dưới nhiều góc nhìn khác nhau .
- Dùng thẻ tre đương nhiên người xem cũng như thầy bói phải thành tâm. Dụng cụ để bói gồm 50 thẻ tre dài chừng 24 cm đến 45 cm. Thầy bói đối lập với người xem, trước hết lấy rút một thẻ đặt lên bàn, còn lại 49 thẻ. Lấy hai tay giăng ra thành hình quạt rồi lấy sức tách thành đôi. Sau đó lấy một thẻ tre từ nắm bên tay phải nhập vào số thẻ tre trong tay trái. Lấy số thẻ tre trong tay trái bớt dần đi mỗi lần 8 thẻ, số còn lại sẽ còn từ 1 đến 8. Số này định quẻ đơn ở Nội quái với số thứ tự ấn định trong bát quái là :
Càn số 1, Đoài số 2, Li Số 3, Chấn số 4, Tốn số 5, Khảm số 6, Cấn số 7, Khôn số 8
Lại theo cách cũ để tách số thẻ tre để tạo Ngoại quái .
Ví dụ lần đầu còn thừa 3 thẻ tức ta được quẻ Li, lần sau còn thừa 4 thẻ ta được quẻ Chấn. Như vậy Nội quái là Li, Ngoại quái là Chấn, ta có quẻ Lôi Hỏa PHONG .
Lấy tổng số thừa của hai lần để bớt đi 6 ( số hào của quẻ ), ta có số hào động. Ở ví dụ trên tổng số hai lần là 3 + 4 = 7, lấy 7-6 = 1, vậy bói được quẻ Lôi Hỏa Phong với hào sơ ( hào một ) động, để biến thành Lôi Sơn Tiểu Quá .
Tuy nhiên khi hành nghề những thầy bói chỉ dùng 16 thẻ tre là một bội số của 8 quẻ, để tạo sự tiếp xúc giữa thầy và người xem, thầy giăng thẻ để người xem bốc 2 lấy trong hai lần. Lần đầu trừ bớt 8 số thừa tạo thành Nội quái tính theo cách trên. Lần bốc thứ hai cũng trừ bớt 8 và số thừa tạo thành Ngoại quái. Tổng số thẻ của hai lần bốc trừ bớt 6, còn bao nhiêu là số hào động ở trong quẻ. Ví dụ lần đầu bốc 15 thẻ tức trừ 8 còn thừa 7 thẻ, được quẻ Cấn ; lần hai bốc được 13 thẻ, trừ 8 còn 5 tức được quẻ Tốn. Quẻ bói được là trên Tốn dưới Cấn tức Phong Sơn Tiệm, Tổng số hai lần bốc là 15 + 13 = 28, trừ bớt dần với 6, còn thừa 4 thẻ, tức bói được quẻ Tiệm động hào tứ biến thành Thiên sơn Độn .
Lối bói bằng thẻ tre này tuy ứng nghiệm nhưng có khuyết điểm là khi nào cũng chỉ có một hào động mà thôi, xử lý hung cát thì dễ nhưng không hề thấy tổng quát được mọi góc nhìn của yếu tố mình cần xem .
1
Phải kể thêm cả Ta mới đủ 6 loại .
3Đây là quan niệm tối cổ ở Trung Quốc, và nền cai trị quân chủ cũng dựa vào quan niệm này. Trên cùng chỉ có một ông vua mà thôi. Lý lấy từ Thái cực sinh hai Nghi, hai Nghi sinh Tứ tượng…
2
Bốc vốn có nghĩa là bói, nhưng vì khi bói nhặt 1 số ít thẻ nên biến thành động từ là “ bốc ” cỏ nghĩa nắm lấy .
Source: https://suachuatulanh.org
Category : Tư Vấn
Có thể bạn quan tâm
- 12 Cách Để Giấy Dán Trần Có Độ Bền Lâu Nhất Luôn Mới (23/11/2024)
- Lỗi E-45 Máy Giặt Electrolux Nguy Hiểm Cho Bo Mạch! (21/11/2024)
- Tủ lạnh Sharp lỗi H-28 Những bước cần làm ngay (16/11/2024)
- Lỗi H27 tủ lạnh Sharp và các bước sửa đơn giản (07/11/2024)
- Giải mã lỗi E-42 máy giặt Electrolux ai cũng hiểu (01/11/2024)
- Thực hiện bảo trì tủ lạnh Sharp lỗi H12 (27/10/2024)