Quá trình truyền thừa pháp trì danh hiệu niệm Phật từ Trung Quốc đến Việt Nam (Thích Nữ Liên Hiền) – Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo
Trì danh niệm Phật nghĩa là xưng danh và nắm giữ câu Phật hiệu. Đây là pháp tu dễ thực hành thực tế nhất của Tịnh Độ tông [ 1 ]. Cụm từ tuy chỉ có 4 chữ nhưng lại hàm chứa phong phú chiêu thức, nó được biểu lộ qua những bậc Cao đức truyền thừa Tịnh Độ tông Trung Quốc. Ngày nay, những chiêu thức này đang được thực hành thực tế không thiếu tại Nước Ta. Vậy đó là giải pháp gì, do ai khởi xướng ? Bài viết sẽ đề cập những nhân vật tiêu biểu vượt trội .
ĐẠI SƯ ĐẠO XƯỚC (562-645)
Bạn đang đọc: Quá trình truyền thừa pháp trì danh hiệu niệm Phật từ Trung Quốc đến Việt Nam (Thích Nữ Liên Hiền) – Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo
Tuy không xếp vào mạng lưới hệ thống 13 vị Tổ Tịnh Độ tông nhưng không có nghĩa rằng Đại sư Đạo Xước không có tầm ảnh hưởng tác động sâu rộng đến nền Phật giáo [ 2 ]. Bên cạnh việc được liệt vào một trong ba dòng mạng lưới hệ thống tư tưởng lớn của Tịnh Độ, Đại sư còn là nhân vật quan trọng của thuyết Niệm Phật Tha Lực trong Tịnh Độ tông Nhật Bản. Mặt khác, Ngài cũng là hình tượng phát minh sáng tạo được tứ chúng tán dương muôn đời. Vì sao ? Vì hiện thân của Ngài là chiếc tràng chuỗi, ai ai cũng sở hữu pháp khí này, đặc biệt quan trọng là hành giả Tịnh Độ .
Tràng chuỗi đã Open từ rất lâu nhưng đơn thuần nó chỉ làm trang sức đẹp anh lạc tôn lên vẻ sang trọng và quý phái cho chư Thiên, những Bà La Môn và hàng quý tộc Sát Đế Lỵ. Vậy nguyên do gì chuỗi trở thành tiểu pháp khí của hành giả Tịnh Độ ? Sơ khảo qua tác phẩm Long Thơ Tịnh Độ : Đức Phật Thích Ca nhân vì thấy hai người già cần mẫn niệm Phật đếm số bằng hạt lúa nên đã từ bi chỉ họ niệm một câu “ Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, Tam Thập Lục Vạn Ức, Nhất Thập Nhất Vạn Cửu Thiên Ngũ Bá Đồng Danh Đồng Hiệu, Đại Từ, Đại Bi, A Di Đà Phật ” mà hoàn toàn có thể siêu vượt ứng với 2000 tạ lúa [ 3 ]. Chi tiết này cho thấy pháp niệm Phật ký số đã có từ thời Phật tại thế .
Người thừa kế và tiên phong pháp ký số niệm Phật này là Đại sư Đạo Xước. Thay vì đếm lúa ( hạt nhỏ và dễ lẫn lộn ), Ngài đếm hạt đậu. Mỗi một câu là một hạt đậu, hoặc ba câu, năm câu, mười câu cũng chỉ trong một hạt đậu. Về sau, Ngài và môn đồ đẽo, gọt gỗ thành hạt để niệm Phật. Để tiện lợi hơn, Ngài đã dựa vào truyền thống lịch sử tràng chuỗi người xưa chế tác ra xâu chuỗi niệm Phật. Từ đây, hành giả Tịnh Độ không phải khó khăn vất vả đem số đậu lớn bên mình để niệm Phật, chỉ cần một xâu chuỗi trên người thì dù đi bất kỳ nơi đâu, muốn niệm bao nhiêu đều hoàn toàn có thể được. Ngoài ra, xâu chuỗi dùng để trì chú hoặc thực tập những pháp tu khác cũng đều giản tiện. Đặc biệt, chuỗi còn tô thêm vẻ đẹp pháp phục, đồng thời là thước đo phẩm giá uy nghiêm, đỉnh đạc của một thầy tu mà Phật giáo Trung Quốc, Đài Loan đã ứng dụng. Trong khi đi, đứng, ngồi, hễ xâu chuỗi càng biểu lộ độ giao động tức là hành giả ấy thực sự chưa hành trì rốt ráo oai nghi của người xuất gia .
Tại Nước Ta, chuỗi hạt ( lớn và nhỏ ) là người bạn thân thương không những của người xuất gia, tại gia mà còn là của những người tín ngưỡng Đạo Phật. Đối với người tu hành, chuỗi có công suất giúp họ niệm Phật được nhiếp tâm, thậm chí còn chuỗi là hình tượng của pháp môn Tịnh Độ. Có lẽ vì thế, Đại đức Nguyên Hiền đã từng tự bạch rằng niềm tin Tịnh Độ của mình xuất phát từ sợi chuỗi trên tay của người thầy [ 4 ]. Vậy công suất tràng chuỗi của Đại sư Đạo Xước được biểu lộ như thế nào ở Tịnh Độ Nước Ta ?
Phương pháp niệm Phật lần chuỗi được tìm thấy qua 1 số ít danh tăng điển hình như : Thiền sư Toàn Nhật – Quang Đài ( 1757 – 1834 ) luôn khuyến khích mọi người lần chuỗi niệm Phật : “ … Vui lòng một chuỗi giới châu / Sớm khuya tưởng niệm công phu mà lần ” [ 5 ] ; Thiền sư Giác Đạo Tuân Minh Chánh ( triều vua Gia Long, 1762 – 1820 ), tuy chủ trương Tự tánh Di Đà nhưng về hành sự Ngài phòng hộ sáu căn, nhiếp phục phiền não bằng niệm Phật qua lần chuỗi [ 6 ]. Tổ Tánh Thiên – Nhất Định ( 1784 – 1847 ), trong bài Tự Châm Văn cũng chứng minh và khẳng định muốn phá vỡ cốt tử Di Đà để nhận ra bộ mặt lâu nay của mình thì phải “ Cầm chuỗi hạt một xâu, thề chết mới thôi, vin hàng cây bảy dãy trông thẳng bước lên ” [ 7 ]. Thiền sư Thanh Phước – Chu Toàn ( 1836 – 1899 ) khổ công tu hành, đạt được công phu chánh định bởi mỗi ngày lần hơn mấy chục chuỗi [ 8 ]. Sư Nguyên Biểu – Nhất Thiết ( 1836 – 1906 ) cũng dạy đại chúng nhiếp tâm trong tràng hạt [ 9 ] .
Như vậy, pháp ký số tràng hạt là một phương pháp giúp cho hành giả thoát khỏi vọng tưởng trong lúc trì niệm. Vì lẽ đó, khi kết tập những yếu điểm quan trọng của pháp môn Tịnh Độ, vì để khuyến dương, Hòa thượng Liên Tôn không bỏ lỡ thành tố này [ 10 ]. Về sau, khi xã hội càng đa sự, tâm tưởng con người càng vọng loạn thì việc nhiếp tâm niệm Phật càng không dễ. Xâu chuỗi là pháp khí được nhiều hành giả chú trọng tu niệm, do vậy chúng trở nên quan trọng và thân quen với pháp môn Tịnh Độ văn minh. Thậm chí chúng là đồ vật cấp thiết được sử dụng trong lúc tiếp xúc của hành giả Tịnh Độ, nhìn vào hình ảnh Đức cố Đệ Tam Pháp chủ Thích Phổ Tuệ vừa lần chuỗi vừa giảng pháp là một ví dụ nổi bật [ 11 ]. Luận về pháp quán tưởng phối hợp với trì danh niệm Phật, Đại sư Đạo Xước cũng là người chủ trương. Toàn bộ tác phẩm An Lạc Tập đã bộc lộ tổng thể tư tưởng của Ngài [ 12 ]. Phương pháp quán tưởng làm tăng thuận duyên cho pháp trì danh, trong tác phẩm Pháp môn Tịnh Độ, Hòa thượng Trí Thủ cũng đề cập rõ ràng [ 13 ] .
Tóm lại, công phu niệm Phật sẽ được sâu hơn nếu biết dùng chuỗi làm phương tiện đi lại trợ duyên. Do vậy, sự khởi đầu ký số tràng hạt của Đại sư Đạo Xước không những làm phong phú phương pháp tu tập mà còn để lại một hình tượng truyền thống lịch sử cho pháp môn Tịnh Độ .ĐẠI SƯ THIỆN ĐẠO (613-681)
Trong quy trình truyền thừa, quan điểm cho rằng toàn bộ phàm phu đều hoàn toàn có thể vãng sanh Cực lạc và chứng thành Phật quả đã được ngài Đàm Loan và Đạo Xước khẳng định chắc chắn nhưng chính ngài Thiện Đạo là nhân vật tiêu biểu đề cao những hạng phàm phu căn nguyên thấp kém đều hoàn toàn có thể nhập vào Báo Độ Cực Lạc. Ngài đã dùng hình ảnh Hoàng hậu Vi Đề Hi ( Vidhehi ) trong tác phẩm Quán Kinh Tứ Thiếp Sớ để khẳng định chắc chắn phàm phu đều do nguyện lực của Phật mà được vãng sanh [ 14 ]. Đương thời, Đại sư đã nêu ra một nguyên tắc Tịnh Độ thuần chánh và cho rằng phàm phu là đối tượng người tiêu dùng quan trọng nhất của pháp môn Tịnh Độ .
Trong Niệm Phật Cảnh, Đại sư chứng minh và khẳng định chỉ cần hành giả lấy Tín – Nguyện làm cơ bản cho sự nghiệp tu hành, ứng dụng Ngũ Niệm Môn [ 15 ] của ngài Thế Thân thì sẽ được vãng sanh [ 16 ]. Thuyết chấp trì thương hiệu Đại sư đưa ra khá đơn thuần, chỉ cần chuyên xưng Di Đà Phật danh, nguyện sanh Di Đà Tịnh Độ. Một lòng chuyên hướng và chuyên niệm về Phật A Di Đà, chính là đạo lý nhất tâm bất loạn. Vì lẽ đó, Hòa thượng Minh Thông ( Huệ Nghiêm ) cảm thấy rất nhẹ nhàng khi được tiếp cận tư tưởng của Đại sư. Hòa thượng nói : “ Khi mà chúng tôi gặp được tư tưởng của Hòa thượng Thiện Đạo rồi thì chúng tôi thấy chắc như đinh nắm phần niệm Phật vãng sanh trong tay chứ giờ đây chờ nhất tâm bất loạn, bao nhiêu việc mà theo trong Kinh thật sự làm không nổi trong đời này ” [ 17 ] .
Trong Quán Kinh Tứ Thiếp Sớ, Ngài chứng minh và khẳng định sâu hơn : “ Ba tâm là tâm chí thành, tâm sâu thiết, tâm hồi hướng phát nguyện. Đầy đủ ba tâm này ắt sẽ được vãng sanh ” [ 18 ]. Tâm chí thành là tâm chân thực ; tâm sâu thiết là lòng tin sâu, vững chắc ; tâm hồi hướng phát nguyện là dâng công đức tu tập một lòng hồi hướng nguyện sanh về cực lạc .
Ngoài việc chuyên nhất thực tập Ngũ Niệm Môn, hành giả cần thọ trì thêm ba phước để làm thành quả cho phẩm vị, đó là : ( 1 ) Thiện căn thế tục ( hiếu dưỡng cha mẹ, kính phụng Sư trưởng, từ tâm không giết hại, tu mười thiện nghiệp ) ; ( 2 ) thực hành thực tế Giới phước ( quy y Tam Bảo, thọ trì giới cấm, không lỗi oai nghi ) ; ( 3 ) phát Bồ đề tâm và khuyến người hành Bồ tát đạo [ 19 ]. Chín phẩm vãng sanh tùy thuộc vào mỗi duyên sai khác của từng chúng sanh ( căn nguyên : thượng, trung, hạ ) [ 20 ]. Học thuyết của Đại sư đã làm sống dậy tâm ý cầu học của tổng thể mọi người, do đó, Đại sư mau trở thành bậc long tượng của Phật giáo Trung Quốc. Đặc biệt hơn, Đại sư là nhân vật tối hậu quan trọng của Tịnh Độ tông Nhật Bản. Trường phái Niệm Phật Tha Lực ( chủ trương dùng tư tưởng ngài Thiện Đạo, tên gọi khác : Bản nguyện niệm Phật, Bản nguyện xưng danh ) cho rằng ngài Thiện Đạo mới đích thực là Cao Tổ của Tịnh Độ, bởi Ngài là chánh tông truyền thừa từ tông Tịnh Độ [ 21 ] .
Đại sư Thiện Đạo đã họa hơn 300 bức ảnh và tượng dựa theo Quán Kinh, hiện còn hơn 20 chứng tích đang lưu giữ ở thạch động Đôn Hoàng ( Cam Túc ). Trong đó có những bức như : Tượng Tam Tôn, cảnh giới Cực Lạc, Tây Phương Thánh Chúng Tiếp Dẫn … Phật giáo Nước Ta đã tìm hiểu thêm những bức họa Tịnh Độ tông Trung Quốc và tiếp biến văn hóa truyền thống thành những tác phẩm mang đậm sắc tố dân tộc bản địa .ĐẠI SƯ PHÁP CHIẾU (tịch năm 821)
Nhắc đến Đại sư Pháp Chiếu, ta cũng nên nhắc đến Ngũ Hội Niệm Phật. Đó là một chiêu thức niệm Phật thích ứng với thị hiếu của phàm phu. Nhân khi quán tưởng cõi Cực lạc, những hàng cây báu phát ra những loại âm thanh vi diệu mà Ngài ý tưởng ra niệm Phật theo âm điệu. Phương pháp niệm Phật này không gây nhàm chán, đồng thời còn kích thích sự tập trung chuyên sâu cao độ của những hành giả, từ đó dễ đi vào niệm Phật tam muội. Vì để lôi cuốn thính giác của người nghe nên Ngũ Hội Niệm Phật sử dụng những pháp khí ( tối thiểu là 4 pháp khí ) để tạo ra âm thanh uyển chuyển như ca hát. Mỗi một pháp hội chia làm năm hội : Hội thứ nhất : khởi đầu niệm Phật thư thả túc tắc ; Hội thứ hai chuyển dần niệm nhanh hơn so với mức độ trung bình, nhưng vẫn còn thư thả ; Hội thứ ba là niệm không nhanh không chậm ; Hội thứ tư mở màn niệm nhanh dần ; Hội thứ năm chuyển sang niệm nhanh gấp ( 4 chữ ) và ngày càng thôi thúc [ 22 ] .
Thuở ấy, giải pháp Niệm Phật Ngũ Hội làm say lòng người. Với những người ưa thích tiếng nhạc thì chiêu thức niệm Phật này rất thích hợp. Vua quan vương triều cũng vì đó mà quy kính cửa Phật, hưng thịnh tông môn. Ngày nay, trong những pháp hội niệm Phật, hành giả Trung Quốc vẫn còn ứng dụng, tuy nhiên có những sự cải cách để tương thích với thời đại ( thêm tiếng đàn, sáo … ). Hành giả Nước Ta cũng vui ưa theo giải pháp Ngũ Hội Niệm Phật nhưng không đơn thuần tìm thấy ở những tự viện đang tu tập Tịnh Độ hằng ngày. Tuy nhiên, xuất phát từ ngài Pháp Chiếu, ở những chùa xưa và nay đều niệm Phật có âm điệu. Những ngôi chùa có thanh điệu niệm Phật rất tha thiết và hứng khởi như : Chùa Hoằng Pháp ( Hóc Môn ), chùa Hộ Pháp ( Vũng Tàu ), chùa Phổ Đức ( Tiền Giang ), chùa Lam Sơn Tịnh Độ ( Bình Phước ) …
Phương pháp Ngũ Hội Niệm Phật yên cầu phải có nhiều nhân lực trình độ trong việc sử dụng pháp khí và âm giọng tốt, do vậy khi đến những pháp hội siêu độ vong linh, Trung Phong Tam Thời Hệ Niệm và những đạo tràng chuyên về pháp sự như : Chùa Di Lặc ( TP. Hồ Chí Minh ), chùa Long Phước Thọ ( Đồng Nai ), chùa Hồng Liên ( Cà Mau ), chùa Từ Quang ( TP. TP HCM ), đạo tràng Niệm Phật – Hộ Niệm Vãng Sanh ( trực tuyến ) … mới rõ tường tận. Sự uyển chuyển của những pháp khí khiến cho người người đều rúng động chân tâm, sự trầm bổng của những âm điệu niệm Phật khiến cho chúng hữu hình, vô hình dung tưởng chừng như đang ngự trên cực lạc. Pháp Ngũ Hội Niệm Phật vẫn hoàn toàn có thể tìm thấy qua những phương tiện đi lại tiếp thị quảng cáo .
Thiết nghĩ, thời nay chỉ một câu “ Nam Mô A Di Đà Phật ” hoặc “ A Di Đà Phật ” mà đã sản sinh ra rất nhiều giai điệu trong âm nhạc. Không những vậy, cộng hưởng theo đó là những tiếng ngân của chuông mõ, chim hót, suối reo, gió thổi … khiến cho hàng sơ cơ vui thích niệm Phật. Đây cũng là phương tiện đi lại khôn khéo dẫn dắt chúng sanh hướng đến pháp môn Tịnh Độ. Như vậy, nhờ tiền đề xưa kia ngài Pháp Chiếu đã chủ xướng Ngũ Hội Niệm Phật mà thời điểm ngày hôm nay Tịnh Độ càng trở nên phong phú .ĐẠI SƯ ẤN QUANG (1861-1940)
Đề cập đến pháp môn Tịnh Độ Nước Ta thời tân tiến không hề không liên hệ đến những tác động ảnh hưởng từ Đại sư Ấn Quang. Ngài là một nhà tư tưởng lớn của Tịnh Độ tông, những nguyên tác đồ sộ của Ngài đã chứng tỏ điều đó. Tuy nhiên, chủ trương mới của Đại sư cũng do sự kết tinh từ người đi trước. Đại sư tôn vinh nhất là yếu tố tu nhân học Phật và nhất hướng chuyên niệm. Tất cả giáo yếu học Phật tu nhân đều được cô đọng trong Lời Khai Thị Của Ấn Quang Đại Sư. Kết hợp với đạo lý Nho gia và tánh đức nhà Phật, Ngài cho rằng : Trọng mối luân thường ; hiếu hòa, nhẫn nhục ; ứng xử lợi tha ; kỷ luật bản thân như : Hổ thẹn, sám hối, khiêm hạ … “ Hãy coi mọi người như Bồ tát, mà ta chỉ là kẻ phàm phu ” [ 23 ] là phẩm chất cơ bản của một đệ tử Phật, lại là chánh nhân của việc vãng sanh .
Đại sư dạy : Đừng chăm sóc những chướng ngại ở thân, tâm và cảnh, từ sáng đến tối chỉ lo niệm Phật, nếu khởi vọng niệm tức thời liền bỏ. Niệm sao mà tâm phải nghe rõ ràng, phân minh là được. Hoặc nên trợ duyên bằng pháp Thập niệm ký số [ 24 ]. Ngài trọn vẹn không đề cập đến công phu chứng đắc, dùng Tín – Nguyện chân thiết, miên mật niệm Phật là đủ. Đó là quan điểm nhất hướng chuyên niệm. Nếu được vậy thì đến lúc mạng chung Phật A Di Đà cùng chư Thánh chúng lai nghinh tiếp đón. Những giải pháp tu học Đại sư đưa ra không hề cao siêu, nó ẩn ngay trong đời sống ứng đối thiên nhiên và môi trường xã hội hằng ngày. Do vậy, rất nhiều hành giả Nước Ta từ những chùa, niệm Phật đường, những đạo tràng đã dán những lời khai thị súc tích này vào nơi dễ nhìn thấy nhằm mục đích nhắc nhở họ ghi nhớ hằng ngày .
Ngoài ra, Đại sư rất chăm sóc đến giới luật và tâm cung kính. Cũng giống như ngài Liên Trì, ngoài khuyên nhắc mọi người nghiêm trì giới cấm, Đại sư tha thiết lôi kéo trường chay – niệm Phật, thực hành thực tế phóng sanh. Ngài chứng minh và khẳng định : Bảo vệ sự sống của chúng sanh là bảo vệ chính mình, do tại tránh được nạn nước, lửa, đao binh và quả báo đọa lạc [ 25 ]. Đặc biệt ở Ngài là tâm cung kính, cả cuộc sống Ngài là một biểu pháp của một bậc oai nghi cung kính Tam bảo. Trong lời dạy Khuyên Nên Giữ Lòng Thành Kính [ 26 ], Đại sư cho rằng đó là yếu tố quan trọng của kẻ chân thực học Phật, là nguồn mối của sự nghiệp tiến đạo .
Hòa thượng Trí Tịnh rất ngưỡng mộ Đại sư Ấn Quang, qua những lời tâm sự với đại chúng, Hòa thượng thường ca tụng : “ Đại sư Ấn Quang là bậc long tượng trong thế kỷ này … Đúng là bậc thiện tri thức của mọi người, đáng là đấng Đại Đạo Sư của mọi giới ” [ 26 ], thậm chí còn Hòa thượng khuyên mọi người nên ghi chép, in ấn và lưu truyền cẩn trọng lời khai thị của Đại sư .
Hòa thượng Thiền Tâm vô cùng cảm phục năng lực của Đại sư. Hòa thượng địa thế căn cứ vào tư tưởng Tịnh Độ của Đại sư qua tác phẩm Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao để kết tập thành Lá Thư Tịnh Độ và Tịnh Độ Tân Lương ngưỡng mong người đời thiết kế xây dựng cách nhìn chân chính về Tịnh Độ. Kể cả văn phong viết sách của Hòa thượng ( được cho là rất đặc biệt quan trọng ) có nhiều nét rất giống Đại sư .
Hiện nay, nhiều hành giả dùng những tác phẩm Ấn Quang Đại sư Gia Ngôn Lục, Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao làm mục tiêu cho việc học Phật. Trong những buổi pháp thoại, những giảng sư Tịnh Độ cũng thường đem lời dạy của Ngài truyền dạy đến thế nhân. Bên cạnh đó, giáo thuyết y cứ của pháp môn Tịnh Độ giờ đây gồm 5 Kinh 1 Luận. Bộ Kinh thứ năm : Đại Thế Chí Bồ tát Niệm Phật Viên Thông Chương rất được Ni trưởng Hải Triều Âm chăm sóc. Vào thời công phu Tịnh Độ, ngoài việc trì Kinh A Di Đà do Ni trưởng soạn dịch, những môn đồ còn tụng đọc thêm Kinh này hằng ngày [ 27 ] .
Đại sư Ấn Quang rất coi trọng Hộ niệm [ 28 ], hàng loạt quan điểm của Ngài biểu lộ trong Lâm Chung Tam Đại Yếu [ 29 ]. Do nhìn được thế cuộc, Đại sư cho rằng Hộ niệm là việc tối cực quan trọng trong thời kỳ Tịnh Độ thời nay. Ở điểm này, hành giả Tịnh Độ Nước Ta hưởng ứng rất can đảm và mạnh mẽ. Các bậc Tôn đức như : Hòa thượng Liên Tôn đã trình diễn ở điểm 13 về tư tưởng Tịnh Độ của mình [ 30 ] ; Hòa thượng Trí Thủ đề cập ở tiết thứ 5 của chương III trong Pháp Môn Tịnh Độ [ 31 ]. Hòa thượng Thiền Tâm diễn đạt chu toàn ở chương X trong Niệm Phật Thập Yếu [ 32 ]. Đặc biệt, Hòa thượng Phổ Tuệ đã mở một buổi tọa đàm “ Niệm Phật – Hộ Niệm Vãng Sanh ”, trong đó cư sĩ Diệu Âm Minh Trị và Vụ trưởng Vụ Phật giáo Bùi Hữu Dược là những nhân vật chủ tọa giải đáp mọi vướng mắc về hộ niệm [ 33 ] .
Nhìn vào trong thực tiễn, đạo tràng Hộ niệm có ở khắp nơi trong cả nước. Hai đạo tràng nổi tiếng nhất là : Diệu Âm Minh Trị và Thu Hương ( Sư cô Tịnh Khai ) hoạt động giải trí rất tích cực trên 60 tỉnh thành. Họ không những tổ chức triển khai Hộ niệm sôi động ở đời thường mà kể cả công nghệ tiên tiến trực tuyến như Zoom, Zalo cũng được ứng dụng triệt để. Những chủ xướng mà Đại sư Ấn Quang để lại đã góp thêm phần làm cho Tịnh Độ Nước Ta ngày này thêm hưng thịnh. Không cần nhìn ở đâu xa, có những ngôi chùa còn mang tên Ngài ( chùa Ấn Quang – TP. TP HCM ), điều này cho thấy hành giả Nước Ta luôn xem Đại sư là bậc đáng kính ngưỡng muôn đời .
Xin bàn rộng thêm, lúc bấy giờ Lão Pháp sư Tịnh Không ( 1927 ) đang giữ vai trò Thượng thủ về Tịnh Độ tông. Chủ trương của Ngài là tăng trưởng niềm tin của Đại sư Ấn Quang ( tu học pháp môn Tịnh Độ từ Lão Cư sĩ Lý Bỉnh Nam, Lão Cư sĩ là đệ tử Đại sư Ấn Quang ). Về yếu tố tu nhân, Hòa thượng Tịnh Không dùng Nho – Phật nhất trí để khuyên dạy đại chúng. Các tác phẩm : Kinh Thập Thiện Nghiệp ( Giáo dục đào tạo Phật Đà ), Kinh Thái Thượng Cảm Ứng Thiên ( Giáo dục đào tạo nhân quả ), Đệ Tử Quy ( Giáo dục đào tạo luân lý ), Liễu Phàm Tứ Huấn rất được chăm sóc. Về yếu tố niệm Phật, Ngài thừa kế tư tưởng chư Tổ, nhưng nghiêng nặng về Đại sư Ấn Quang và Ngẫu Ích .
Tịnh Tông Học Hội được kiến lập khắp nơi trên quốc tế. Một số hành giả Nước Ta đang tham gia Hội này học tập tư tưởng và tăng trưởng cùng Ngài. Pháp hội Trung Phong Tam Thời Hệ Niệm [ 34 ] cũng là một trào lưu tác động ảnh hưởng từ Lão Pháp sư. Những chiếc ca sa nâu, áo tràng nâu tay rộng đang hoạt động giải trí ở những đạo tràng Tịnh Độ là biểu lộ của những hành giả đang tiếp đón tư tưởng tu học từ Lão Hòa thượng. Hoặc nhiều hành giả tuy học tập từ Ngài nhưng hình tướng lại là tín chúng Phật giáo Nước Ta. Đến thời Lão Pháp sư Tịnh Không, những hành giả đã có sự phối hợp thuần thục giữa chiêu thức quán tưởng niệm Phật và chấp trì thương hiệu. Nhất là những Ban Hộ niệm, hai chiêu thức này có vẻ như không hề tách rời, chúng rất cấp thiết cho người bệnh và người sắp lâm chung .
Tóm lại, Cao tăng trong Tịnh Độ tông Nước Trung Hoa rất nhiều và có năm bậc Thượng thủ lưu danh muôn đời về pháp Trì danh niệm Phật. Những vị ấy là Ngài : Đạo Xước, Thiện Đạo, Pháp Chiếu, Ấn Quang và Tịnh Không. Các giải pháp niệm Phật ấy rất đơn thuần, dễ thực hành thực tế và sớm đạt thành tựu. Đồng thời tông chỉ Tịnh Độ mỗi vị đưa ra rất thích hợp với văn hóa truyền thống đạo đức của người Việt, vì lẽ đó uy danh và hành pháp của những Ngài được lưu truyền và thông dụng đến những hành giả Tịnh Độ Nước Ta .Thích Nữ Liên Hiền
Chú thích và tài liệu tham khảo:
[ 1 ] Bên cạnh pháp Trì danh niệm Phật còn có những phương pháp thực hành thực tế khác của Tịnh Độ tông như : Quán tượng niệm Phật, Quán tưởng niệm Phật, Thật tướng niệm Phật, Tham cứu niệm Phật .
[ 2 ] Để lý giải lí do Đại sư Đạo Xước không được xếp vào chư vị Tổ sư Tịnh Độ, học giả Nghiệp Lộ Hoa cho biết : do nhiều lần bị triệt phá Phật giáo trong sự kiện “ Hội Xương pháp nạn ”, khiến cho Đại sư Tông Hiểu, Chí Bàn không biết đến tư tưởng và sự nổi tiếng của ngài Đạo Xước. Vì vậy, Ngài bị quên lãng ở vị thế Tổ sư, người đời sau cũng y theo tiêu chuẩn này khiến cho vị thế của ngài Đạo Xước không còn được coi trọng. Xem tại : Bản Nguyện Niệm Phật, Nhiều tác giả ( năm ngoái ), NXB. Tôn giáo, TP TP HCM, tr. 295 .
[ 3 ] Vương Nhựt Hưu ( 2009 ), Long Thơ Tịnh Độ, Thích Hành Trụ ( dịch ), Thư viện Ebook, tr. 62 .
[ 4 ] Thích Nguyên Hiền., “ Pháp Môn Tịnh Độ Tại Nước Ta ”, Nghiên Cứu Phật Học, ( Thành Phố Hà Nội ), số 9 ( năm nay ), tr. 30-36, tr. 36 .
[ 5 ] Thích Thái Hòa ( 2013 ), Đi Vào Bản Nguyện Tịnh Độ, Nxb. Văn hóa – Văn nghệ, TP TP HCM, tr. 80 .
[ 6 ] Thích Thái Hòa ( 2013 ), Sđd, tr. 82 .
[ 7 ] Thích Thái Hòa ( 2013 ), Sđd, tr. 83 .
[ 8 ] Thích Thái Hòa ( 2013 ), Sđd, tr. 95 .
[ 9 ] Nguyễn Tiến Sơn, “ Kinh Điển Y Cứ Của Pháp Tu Tịnh Độ và Các Nhân Vật Tiêu Biểu Thực Hành Pháp Tu Tịnh Độ ”, Nghiên Cứu Tôn Giáo, ( Thành Phố Hà Nội ), Số 1 và 2 ( 160 ), ( 2017 ), tr. 28-54, tr. 48 .
[ 10 ] Điểm thứ ( 4 ), HT. Liên Tôn cho rằng pháp niệm Phật cần phải có ký số lần chuỗi, ghi nhớ lượt niệm để được chú tâm – chánh niệm. Xem thêm : Thích Đồng Thành, “ HT Liên Tôn và Tư Tưởng Tịnh Độ Nhân Gian ”, Xưa Và Nay, ( Thành Phố Hà Nội ), số 497 ( 7 / 2018 ), tr. 22-28, tr. 25 .
[ 11 ] HT. Thích Phổ Tuệ, Đại Lão Hòa Thượng Thích Phổ Tuệ Nói Về Hành Trạng Chư Tổ Chùa Ráng và Pháp Tu [ 12 ] Đại sư Đạo Xước rất tôn vinh pháp trì danh niệm Phật và tán thán Đại sĩ Vi Đề Hy vì tình thương chúng sanh nên đã thỉnh Đức Thích Ca mở bày pháp môn Tịnh Độ, do vậy Ngài cũng lấy Quán Kinh làm mục tiêu để quán tưởng về quốc tế Cực Lạc. Xem thêm : An Lạc Tập, Sa môn Đạo Xước, Như Hòa ( chuyển ngữ ), thư viện Ebook, tr. 4 .
[ 13 ] HT. Thích Trí Thủ ( 2002 ), Pháp Môn Tịnh Độ, Nxb. Phú Lâu Na, Mỹ, tr. 68-71 .
[ 14 ] Các Đại sư đương thời như : Tịnh Ảnh Huệ Viễn, Trí Giả, Khuy Cơ cho rằng bà Vi Đề Hy là một hóa thân Bồ tát để mở bày pháp tu Tịnh Độ thì ngài Thiện Đạo lại cho rằng bà cũng phàm phu được Phật A Di Đà cứu độ. Xem thêm : Bản Nguyện Niệm Phật, Nhiều tác giả ( năm ngoái ), Nxb. Tôn giáo, TP. Hồ Chí Minh, tr. 303 – 307 .
[ 15 ] Ngũ Niệm Môn gồm : ( 1 ) Lễ bái Phật A Di Đà, ( 2 ) tán thán ( xưng danh và nhớ tưởng ) Phật A Di Đà, ( 3 ) mong nguyện về Cực Lạc, ( 4 ) quán sát trang nghiêm cõi Cực Lạc, ( 5 ) hồi hướng chúng sanh cùng mình sanh về Cực Lạc và sẽ trở lại Ta Bà quốc tế giáo hóa chúng sanh cùng hướng về Phật đạo. Xem tại : Đàm Loan Đại Sư ( 2017 ), Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá – Nguyện Sinh Kệ Chú, Thích Nhất Chân ( dịch ), Nxb. Hồng Đức, TP. TP HCM, tr. 240 – 50 .
[ 16 ] Đại sư Thiện Đạo ( 2005 ), Niệm Phật Cảnh, Thích Minh Thành ( dịch ), Nxb. Tôn giáo, TP TP HCM, tr. 7-9 .
[ 17 ] HT. Thích Minh Thông, Khai Thị Niệm Phật [ trực tuyến ], đã phát : 17/4/2009, https://www.youtube.com/watch?v=bXbAp-_6tlw .
[ 18 ] Hòa Thượng Thiện Đạo ( 2009 ), Quán Kinh Tứ Thiếp Sớ, Thích Thiền Tâm ( dịch Kinh văn ), Thích Pháp Chánh ( dịch Sớ văn ), Tường Quang Tùng Thư số 9, tr. 157 .
[ 19 ] Pháp Sư Tịnh Tông ( 2017 ), Tư Tưởng Tịnh Độ Của Đại Sư Thiện Đạo, Liên Mãn dịch, Nxb. Hồng Đức, TP. TP HCM, tr. 215 .
[ 20 ] Nhiều tác giả ( năm ngoái ), Bản Nguyện Niệm Phật, Nxb. Tôn giáo, TP. Hồ Chí Minh, tr. 95 .
[ 21 ] Xem thêm : Tư Tưởng Tịnh Độ Của Đại Sư Thiện Đạo, Pháp Sư Tịnh Tông ( 2017 ), Liên Mãn dịch, Nxb. Hồng Đức, TP TP HCM, tr. 34-35 .
[ 22 ] Pháp Tạng Phật giáo Nước Ta, Luận Sử Tịnh Độ tông, Thư viện Ebook, tr. 108 .
[ 23 ] Trích trong “ Lời Khai Thị của Đại sư Ấn Quang ” .
[ 24 ] Có hai cách hiểu về Thập niệm ký số : Cách thứ nhất dành cho người chuyên niệm : Không được dùng chuỗi. Dùng tâm niệm từ một đến mười câu, rồi niệm trở ngược lại mười đến một. Nếu quá số thì không được tính kể. Nếu chưa quen thì chia làm hai hơi : từ câu một đến câu năm, từ câu sáu đến câu mười. Cách thứ hai dành cho người bận rộn. Đây là giải pháp của ngài Từ Vân Sám Chủ đời Tống đề xướng. Cách này dùng một hơi bất kể dài hay ngắn là một niệm, niệm đến mười hơi. Thực hành như vậy giúp cho tâm không bị xen tạp. Mỗi ngày càng nhiều thời càng tốt, hoặc tới chín thời. Lâm chung ắt có phần vãng sanh. Xem thêm : Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục, Lý Viên Tịnh ( kết tập ), Như Hòa ( dịch ), Thư viện Ebook, tr. 49 .
[ 25 ] Nguyễn Minh Tiến ( dịch và soạn giải ) ( năm nay ), Cẩm Nang Phóng Sinh, Nxb. Tôn giáo, TP TP HCM, tr. 115 .
[ 26 ] Trích trong : Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục, Lý Viên Tịnh ( kết tập ), Như Hòa ( dịch ), Thư viện Ebook, tr. 105 – 113 .
[ 27 ] HT. Thích Trí Tịnh ( năm trước ), Hương Sen Vạn Đức, Nxb. Hồng Đức, TP Hồ Chí Minh, tr. 247 .
[ 28 ] NT. Hải Triều Âm ( dịch ) ( năm ngoái ), Kinh A Di Đà, Nxb. Tôn giáo, TP TP HCM, tr. 31-33 .
[ 29 ] Hộ niệm là giải pháp dùng âm thanh niệm Phật của người còn khỏe mạnh trợ giúp cho người sức yếu hoặc vừa mới lâm chung duyên theo tiếng niệm Phật để được nhiếp tâm. Ứng dụng chiêu thức Hộ niệm để kịp thời tương hỗ tích cực cho nhau yên tâm hơn trên con đường vãng sanh cực lạc. Xem tại : Hộ Niệm là một Pháp Tu, Diệu Âm Minh Trị ( 2017 ), Nxb. Hồng Đức, TP TP HCM, tr. 02
[ 30 ] Nguyên tên của tác phẩm là “ Ba điều quan trọng nhất lúc lâm chung ”, trích trong : Ấn Quang Đại Sư Khai Thị ( Tại Pháp Hội Hộ Quốc Tức Tai Ở Thượng Hải ), Bửu Quang Tự Đệ Tử Liên Hương ( dịch ) ( 2009 ), Thư viện Ebook, tr. 72-78 .
[ 31 ] Thích Đồng Thành., “ HT Liên Tôn và Tư Tưởng Tịnh Độ Nhân Gian ”, Xưa Và Nay, ( TP.HN ), số 497 ( 7/2018 ), tr. 22-28, tr. 26 .
[ 32 ] HT. Thích Trí Thủ ( 2002 ), Pháp Môn Tịnh Độ, Nxb. Phú Lâu Na, Mỹ, tr. 43-47 .[33] Thích Thiền Tâm (2011), Niệm Phật Thập Yếu, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr.306-316.
Xem thêm: 48 câu đố vui hại não cực hay
[ 34 ] HT. Thích Phổ Tuệ, Khai Thị và Hỏi Đáp Về Niệm Phật – Trợ Niệm Vãng Sanh, đã phát 29/2/2016, https://www.youtube.com/watch?v=cZGpA999g7M&t=563swatch?v=cZGpA999g7M&t=563s .
[ 35 ] Trung Phong là một tên gọi khác của Thiền sư Minh Bổn ( nhà Nguyên ). Ngài là người biên soạn và thực hành pháp Tam Thời Hệ Niệm. Nghĩa đen là ngày ba thời, đêm ba thời ; nghĩa bóng là ngày đêm không trễ lười. Hệ niệm tức là niệm niệm nối nhau liên tục. Đây là pháp sự cầu vãng sanh cho người âm và tích chứa quyền lợi vãng sanh về sau cho người dương. Xem tại : HT. Tịnh Không ( giảng ) ( năm trước ), Trung Phong Tam Thời Hệ Niệm – Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Như Hòa ( dịch ), Nxb. Hồng Đức, TP Hồ Chí Minh, tr. 22-23 .
Source: https://suachuatulanh.org
Category : Hỏi Đáp Chuyên Gia
Có thể bạn quan tâm
- Lỗi H27 tủ lạnh Sharp và các bước sửa đơn giản (07/11/2024)
- Giải mã lỗi E-42 máy giặt Electrolux ai cũng hiểu (01/11/2024)
- Thực hiện bảo trì tủ lạnh Sharp lỗi H12 (27/10/2024)
- Lưu ý khi gặp lỗi E-41 máy giặt Electrolux (20/10/2024)
- Tủ lạnh Sharp lỗi H-10 Làm sao để khắc phục? (16/10/2024)
- Từng Bước Khắc Phục Lỗi E-40 Máy Giặt Electrolux (13/10/2024)