Tìm hiểu một chút Thẻ Đền Quan – thành phố Thái Bình.

Đền Quan nằm bên bờ sông Trà Lý thuộc phường Hoàng Diệu, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình. Đền Quan thờ vị thần “Tiết Chế Nam Đạo Đại Thần Tướng, họ Trần – húy Thắng” là người có công dẹp giặc ngoại xâm và giúp dân trị thủy sông Trà Lý. Đền được xây dựng vào năm 905. Đền Quan được UBND tỉnh Thái Bình cấp bằng công nhận Di tích lịch sử Cách mạng Văn hóa năm 1998.

Thẻ đền  Quan

Thẻ đền Quan đang sử dụng là bộ thẻ “Quan Thánh Đế” hay còn gọi là thẻ Quan Công – Quan Vân Trường, gồm 100 lá. Đây cũng là một trong những bộ thẻ phổ biến được sử dụng tại các đền thờ Quan thánh tại Việt Nam. Về nguyên bản của thẻ Quan Thánh đế sẽ có 4 câu thơ chữ Hán nói việc cát hung tổng quát, sau đó sẽ có những phần giải thích về các việc như: Vận thế, Gia đình, hôn nhân, tài lợi, công danh, sự nghiệp, sức khỏe, thi cử, xuất hành, kiện tụng, thất vật…. và cuối cùng là phần: Thánh ý (phần Thánh ý của Thẻ Quan đế do Tô Đông Pha chú thích).

Lấy Thẻ số 51 – Đền Quan thành phố Thái Bình làm ví dụ:

Bạn đang đọc: Tìm hiểu một chút Thẻ Đền Quan – thành phố Thái Bình.

04 câu thơ chữ Hán như sau:

君今百事且隨緣 ,
水到渠成聽自然 ;
莫嘆年來不如意 ,
喜逢新運稱心田 。
Âm Hán Việt :
Quân kim bá sự thả tùy duyên ,
Thủy đáo cừ thành thính tự nhiên ,
Mạc thán niên lai bất như ý
Hỷ phùng tâm vận xứng tâm điền .
Nghĩa là :
Nay làm trăm việc phải tùy duyên ,
Nước tới đê cao phải đắp liền ,
Đừng than năm tới không như mong muốn ,
Hợp lòng vận mới tốt triền miên .
Thẻ 51 đã bỏ đi 04 câu thơ chữ Hán nói trên, mà chỉ ghi diễn giải bằng những câu thơ được dịch ra từ phần nội dung chính của thẻ ( phần thơ diễn giải này tác giả cũng chưa rõ ai là người soạn dịch ) .

“ Quẻ xem hung vận đã qua ,
Tự nhiên cát vận đến ta có rồi
Liệu chừng trăm việc xong thôi
Khác nào như nước dâng ngòi, ngòi lên
Nhân duyên sẽ hẹn mà nên
Viết thư lá thắm thả miền ngự câu ” .

Phần Thánh ý ghi: Danh hiển đạt, kiện tạm khoan, tài tự có, bệnh tự an, người đi về, hôn nên định.

Nếu chỉ đọc nhưng nội dung này, thì đây đúng là một thẻ như mong muốn, mọi việc tốt đẹp đều sẽ đến trong năm nay. Nếu hiểu sơ qua thì nội dung thế này : Năm nay việc xấu ( hạn xấu ) đã qua rồi, mọi việc tốt đẹp tự nhiên sẽ đến. Có định làm gì thì cứ làm, vì làm là sẽ được, như nước dâng lên một cách tự nhiên, không cần cầu cũng tự mang đến suôn sẻ, còn nếu chưa có hôn nhân gia đình thì năm nay chắc sẽ gặp được người suôn sẻ. Phần Thánh ý nói đơn cử hơn một số ít việc, duy chỉ có việc kiện tụng thì Thánh ý nói phải tạm khoan hãy làm, còn lại đều như ý cả .

Nếu sau khi đọc thẻ có thể hiểu cơ bản như vậy, thì cũng không cần phải nhờ thầy giải thêm.  Tuy nhiên, trong lá thẻ vẫn nhắc đến tích cổ: “Ngự câu trôi lá thắm” và câu thơ cuối cùng: “Viết thư lá thắm thả miền ngự câu” là khó hiểu.

Trước tiên nên hiểu, thẻ quan Thánh đế nói riêng và mạng lưới hệ thống thẻ trong Đạo giáo nói chung đều có trích dẫn tích cổ trong lịch sử dân tộc Trung Quốc. Thẻ Quan Thánh đế có 100 thẻ thì kể ra 100 tích chuyện hầu hết là thời Tam Quốc, thời Đường và Đông Chu Liệt Quốc .
Thẻ số 51 nhắc đến tích : “ Ngự câu trôi lá thắm ” ( “ Ngự câu lưu hồng nhan ” hoặc “ Hồng diệp đề thi ” ). Đây là một giai thoại nổi tiếng Trung Quốc về câu truyện lá thắm đề thơ thả ở dòng ngự câu ( ngòi nước từ trong cung vua chảy ra ngoài ) của thời Đường .

Đời Đường ( 618 – 907 ), đời vua Hy Tông có nàng cung nữ tuyệt sắc tên Hàn Thúy Tần sống cảnh một mình buồn chán trong thâm cung, nên thường nhặt những chiếc lá đỏ ( hồng diệp ) rồi đề thơ lên trên lá, thả xuống ngòi nước :

流水何太急,
深宮盡日閑。
殷勤謝紅葉,
好去到人間。
Dịch âm
Lưu thủy hà thái cấp
Thâm cung tận nhật nhàn
Ân cần tạ hồng diệp
Hảo khứ đáo nhân gian
Dịch thơ
Nước trôi sao quá vội
Cung thẳm suốt ngày nhàn
Ân cần ơn lá thắm
Xuôi êm về nhân gian

Chiếc lá chở bài thơ theo dòng nước chảy xuôi ra ngoài vòng cấm lũy. Lúc bấy giờ có người môn khách của quan Tể Tướng Hàn Vinh tên Vưu Hựu vốn kẻ phong phú tài tử, thơ hay, chữ tốt, chỉ hiềm một nỗi vận chưa đạt nên đành chịu sống nhờ nơi quan Tể Tướng họ Hàn. Đương thơ thẩn ngắm dòng nước chảy, Hàn bỗng nhìn thấy chiếc lá có bài thơ, lấy làm lạ mới vớt lên xem. Cảm tình chan chứa với người gởi thơ lạ mặt, chàng cũng bẻ một chiếc lá, viết một bài thơ vào đấy, đợi dòng nước xuôi mới thả lá xuống cho trôi trở vào cung .

愁見鶯啼柳絮飛,
上陽宮女斷腸時。
君恩不禁東流水,
葉上題詩寄與誰?
Dịch âm
Sầu kiến oanh đề liễu nhứ phi,
Thượng Dương cung nữ đoạn trường thì.
Quân ân bất cấm đông lưu thủy
Diệp thượng đề thi ký dữ thùy ?
Dịch thơ
Ngắm liễu nghe oanh thoáng cảm hoài
Cung cấm người đang buổi ngậm ngùi
Nước trôi không xiết ngăn tình ấy
Trên lá thơ đề gửi đến ai

Người cung nữ họ Hàn thường ngồi nhìn dòng nước chảy, bỗng bắt được chiếc lá trở vào của người không quen biết, mới đem cất vào rương son phấn.
Ba năm sau, nhà vua sa thải một số cung nữ, trong đó có Thúy Tần. Nàng đến ở tạm dinh quan Tể Tướng họ Hàn để chờ thuyền trở về quê cũ, bỗng gặp Vưu Hựu. Hai người trò chuyện, ý hợp tâm đầu. Tể Tướng họ Hàn thấy cả hai đều xứng đôi vừa lứa nên làm mối thành duyên giai ngẫu.
Đêm tân hôn, Hựu chợt mở rương của vợ thấy chiếc lá của mình ngày xưa. Lấy làm lạ lùng, chàng cũng đem chiếc lá của mình vớt được cho vợ xem. Thì ra cả hai lại giữ hai chiếc lá của nhau. Cho là thật duyên trời định.

Để hiểu thêm về thẻ Đền Quan sau đây là bảng thống kê nội dung tích 100 thẻ :

Thẻ 1

Đại Cát Hán Cao tổ vào thành
Thẻ 2 Thượng cát Trương Tử Phòng dạo xích tùng
Thẻ 3 Trung cát Giả Nghi gặp Hán Văn Đế
Thẻ 4 Hạ hạ Tiểu Tần Vương 3 lần qua sông
Thẻ 5 Trung bình Lữ Mông Chính thủ khổn
Thẻ 6 Hạ hạ Tương như ngọc lành quy Triệu
Thẻ 7 Đại cát Lã Động Tân luyện linh đan
Thẻ 8 Thượng thượng Vua Thuấn cày Lịch Sơn
Thẻ 9 Đại cát Tống Thái Tổ  Trần Kiều lên ngôi
Thẻ 10 Hạ hạ Nhiễm Bá Ngưu nhiễm bệnh
Thẻ 11 Hạ hạ Hàn Tín công lao không bền
Thẻ 12 Trung Bình Tô Võ chăn dê
Thẻ 13 Trung bình Khương Tử Nha buông câu
Thẻ 14 Hạ hạ Quách hoa yêu Vương Nguyệt Anh
Thẻ 15 Trung bình Trương Quân Thụy nhớ Thôi Oanh Oanh
Thẻ 16 Hạ hạ Vương Tường nằm tuyết
Thẻ 17 Hạ hạ Thạch Sùng gặp nạn
Thẻ 18 Trung Bình Mạnh Thường Quân chiêu hiền
Thẻ 19 Thượng cát Quách Tử Nghi phong vương
Thẻ 20 Hạ hạ Nghiêm Tử Lăng đăng câu đài
Thẻ 21 Hạ hạ Tôn Tẫn, Bàng Quyên đấu trí kết thù
Thẻ 22 Thượng cát Lý Bạch gặp Đường Minh Hoàng
Thẻ 23 Hạ hạ Ngô Phù Sai yêu Tây Thi
Thẻ 24 Trung bình Trương Khiên ngộ nhập đẩu ngưu cung
Thẻ 25 Trung Bình Đường Minh Hoàng du nguyệt cung
Thẻ 26 Trung bình Thiệu Nghiêu Phu cầu trời
Thẻ 27 Hạ hạ Giang đông đắc đạo
Thẻ 28 Thượng cát Tương Như đề kiều
Thẻ 29 Thượng thượng Tư Mã Ôn than khó
Thẻ 30 Trung cát Liễu Nghị truyền thơ
Thẻ 31 Trung cát Tô Khanh phụ tín
Thẻ 32 Hạ hạ Châu Công giải mộng
Thẻ 33 Trung bình Trang Tử ngộ đạo
Thẻ 34 Trung bình Tiêu Hà tìm Hàn Tín
Thẻ 35 Hạ hạ Dương Chiêu Quân hòa Phiên
Thẻ 36 Thượng cát La Ẩn cầu quan
Thẻ 37 Trung bình Thiệu Nghiêu Phu thắp hương
Thẻ 38 Hạ hạ Mạnh Khương Nữ nhớ chồng
Thẻ 39 Hạ hạ Đào Uyên Minh xem hoa cúc
Thẻ 40 Thượng cát Hán Quang Vũ vây hãm Côn Dương
Thẻ 41 Trung cát Lưu Văn Long cầu quan
Thẻ 42 Trung cát Đổng Vĩnh bán mình
Thẻ 43 Trung cát Lưu Huyền Đức Hoàng Hạc Lâu dự tiệc
Thẻ 44 Trung Bình Vương Mãn soán ngôi
Thẻ 45 Trung bình Cao Tổ ngộ Đình Công
Thẻ 46 Trung bình Cô nhi báo oán
Thẻ 47 Hạ hạ Sở Hán giao tranh
Thẻ 48 Trung bình Triệu Ngũ Nương tìm chồng
Thẻ 49 Hạ hạ Trương Tử Phòng ẩn trốn
Thẻ 50 Thượng cát Tô Đông Pha khuyên dân
Thẻ 51 Thượng cát Ngự câu lưu hồng nhan
Thẻ 52 Thượng cát Khuông Hoành học đêm
Thẻ 53 Hạ hạ Lưu Bị cầu hôn giang tả
Thẻ 54 Trung bình Mã Siêu truy Tào
Thẻ 55 Trung bình Bao long Đồ khuyến nông
Thẻ 56 Hạ hạ Vương Khu Mật nham hiểm
Thẻ 57 Trung bình Lạn Kha xem cờ
Thẻ 58 Thượng cát Tô Tần mang kiếm
Thẻ 59 Trung bình Đăng Bá Đạo không con
Thẻ 60 Thượng thượng Tống Giao anh em đồng khoa
Thẻ 61 Trung Bình Khoái Triệt gặp Hàn Tín
Thẻ 62 Trung bình Hàn Tín chiêu Bá Vương
Thẻ 63 Trung bình Dương lệnh công tại Lý lăng bia
Thẻ 64 Thượng thượng Quản Trọng, Bào Thúc Nha chia vàng
Thẻ 65 Thượng thượng Mông Dương, Một Lan hòa thi
Thẻ 66 Thượng thượng Đỗ Phủ du xuân
Thẻ 67 Trung bình Giang Di dặn con
Thẻ 68 Trung bình Tiền Đại Ngọc buôn muối
Thẻ 69 Trung bình Tôn Tẫn, Bàng Quyên đấu trí
Thẻ 70 Trung bình Dương Cối cầu khấn
Thẻ 71 Trung bình Tô Võ về quê
Thẻ 72 Trung bình Phạm Lãi quy hồ
Thẻ 73 Hạ hạ Dương Chiêu Quân nhớ Hán đế
Thẻ 74 Thượng cát Thôi Võ cầu quan
Thẻ 75 Thượng cát Lưu tiểu thu yêu Lữ Mông Chánh
Thẻ 76 Trung bình Tiểu Hà chú luật
Thẻ 77 Trung hạ Lữ Hậu thích Hàn tín
Thẻ 78 Hạ hạ Viên An thủ khổn
Thẻ 79 Trung Bình Văn Vương soạn dịch Thẻ
Thẻ 80 Hạ hạ Quách Phác chôn mẹ
Thẻ 81 Trung bình Khấu Công nhậm chức Lôi Dương
Thẻ 82 Thượng cát Tống Nhân Tông nhận mẹ
Thẻ 83 Hạ hạ Gia cát Khổng Minh học đạo
Thẻ 84 Trung bình Tu Cổ hại Phạm Truy
Thẻ 85 Trung bình Khương Nữ tầm phu
Thẻ 86 Thượng thượng Quản Trọng, Bào Thúc Nha buôn bán
Thẻ 87 Hạ hạ Gia Cát Lượng, Tử Kính đồng thuyền
Thẻ 88 Thượng cát Cao Văn Định thủ khổn
Thẻ 89 Trung cát Ban Siêu về Ngọc Môn quan
Thẻ 90 Trung bình Dương Văn Quản khốn Liễu Châu
Thẻ 91 Trung bình Triệu Tử Long phù Á Đẩu
Thẻ 92 Trung hạ Hán Cao Tổ trị dân
Thẻ 93 Trung bình Thiệu Khang Tiết định âm dương
Thẻ 94 Trung bình Đề Kết qua nhà trưởng giả
Thẻ 95 Trung bình Trương Văn Viễn cầu quan
Thẻ 96 Thượng cát Sơn Đào gặp Vương Viễn
Thẻ 97 Thượng thượng Châu Mãi Thần năm mươi tuổi phú quý
Thẻ 98 Trung bình Tiết Nhân Quý đầu quân
Thẻ 99 Trung bình Bá Lý Hề về Tần
Thẻ 100 Thượng thượng Đường Minh Hoàng cầu trời

Đối với những nội dung tích này, thẻ Đền Quan không có phần lý giải nội dung tích chuyện. Người đọc thẻ cần khám phá những tích này trên sách vở hoặc mạng internet. Một cách khác đơn thuần hơn là hoàn toàn có thể truy vấn vào website rút thẻ trực tuyến của Đài Loan tại địa chỉ http://www.golla.tw/cq/chouqian/guandi/ để xem nội dung đơn cử của từng thẻ bằng chữ Hán và phần lý giải tích cổ. Phần nội dung này cũng đã được một website của việt nam ( https://thantienvietnam.com/kinhdich ) dịch một phần sang tiếng Việt, nhưng vẫn thiếu phần chú thích về tích chuyện .

Một ví dụ khác về Thẻ số 75 – Đền Quan với tích: “Lưu Tiểu Thư yêu Mông Chính”

Tích này được lý giải trên trang website http://www.golla.tw/a/chouqian/guandi/51.html như sau :
Nguyên văn chữ Hán :

劉小姐愛蒙

志乘雲 : 呂蒙正妻劉氏 , 樞密文茂之女 。 蒙正未逢時 , 茂輕之 , 有悔意 。 劉小姐獨愛之 , 同居破窯 。 因見蒙正舉止不凡 , 知蛟龍非久困池中物也 。 後果大魁天下 , 三居相位 , 受封蔭焉 。

Chí Thừa Vân viết : Vợ Lữ Mông Chính là Lưu Thị, là con gái của 1 vị tể tướng tên Văn Mậu ( viện Cơ Mật nhà Tống ). Lúc chưa gặp thời, Mông Chính là kẻ bần hàn, bị coi thường, nhưng lại được Lưu tiểu thư yêu. Lưu tiểu thư từ bỏ tổng thể lấy Mông Chính và sống cùng nhau trong cái lò gạch đổ nát. Vì Lưu tiểu thư thấy Mông Chính cử chỉ phi phàm, như con rồng còn đang gặp khó trong ao tù. Sau này Mông Chính đỗ Trạng, nhậm đến chức Tế Tưởng .
Tìm hiểu thêm về Lữ Mông Chính ta thấy :

Lữ Mông Chính ( 944 và 946 – 1011 ), Tự là Thánh Công, người đất Lạc Dương tỉnh Hà Nam, đậu Trạng Nguyên năm Đinh Sửu đời Tống Thế Tôn năm 977. Sau khi đỗ Trạng, Lữ Mông Chính đã từng giữ những chức vụ Giám Thừa, Thông Phán, Trứ Tác Lang, Tả Bổ Khuyết, Tham Tri Chính Sự. Năm 988, Lữ nhậm chức Tể Tướng. Bệnh mất năm Đại Trung Tường Phù thứ 4 ( 1011 ), hưởng thọ 67 tuổi

Sau khi cha mất, gia cảnh ngày một suy vi . Lữ Mông Chính cùng mẹ phải tạm trú ngụ trong một lò gạch cũ, làm nghề ăn xin độ nhật.
Một hôm, thấy trước cửa quan Tể Tướng đông nghịt những người, chen chút nhau rất náo nhiệt. Lữ cũng chen vào để xem, tình cờ một vật gì đó từ trên trời bay xuống rớt đúng vào lòng. Thì ra, thiên kim tiểu thơ của quan Tể Tướng là Lưu Nguyệt Nga đang gieo tú cầu để tìm người hôn phối. Vật bay vào lòng Lữ là trái tú cầu được Lưu tiểu thơ ném từ trên lầu xuống….

Dĩ nhiên là ông bà Tể Tướng không chịu đồng ý hôn sự này, nhưng tiểu thư Nguyệt Nga thì lại kiên trì gật đầu từ bỏ tổng thể để đi theo Lữ về sống ở lò gạch bể, vì nàng cho đây là duyên trời định và hơn nữa không hề bội tín được .

  Lữ Mông Chính là một tể tưởng có xuất thân từ ăn xin duy nhất trong lịch sử của Trung Quốc.

Như vậy, thẻ số 75 về cơ bản là thẻ xem nhân duyên. Tuy nhiên phần Thánh ý lại nói thêm về những việc khác. Nếu chỉ dựa vào những câu thơ trên Thẻ tại Đền Quan thì khó đoán được thâm ý của thẻ. Do đó vẫn cần phải so sánh lại với những câu thơ chữ Hán trên thẻ gốc Quan Thánh đế .
生前結得好姻緣 ,
一笑相逢情自親 ;
相當人物無高下 ,
得意休論富與貧 。
Âm Hán Việt :
Sinh tiền kết đắc hảo nhân duyên ,
Nhất tiếu tương phùng tình tự thân ,
Tương đương nhân vật vô cao hạ ,
Đắc ý hữu luân phú dữ bần .
Dịch thơ :

Duyên lành đã định kết tình thân
Gặp được lòng mừng vui mãi dâng
Đôi bên so lại không cao thấp
Ưng dạ so chi chuyện phú bần.

Nhân duyên là do tiền định, con người với nhau đều tương đương, không phân biệt cao thấp, sang hèn, giống như mối lương duyên của thiên kim Tiểu thư và chàng trai ăn xin nghèo khó Lữ Mông Chính. Suy ra, việc gì trong đời cũng vậy, xấu đẹp là do nhân duyên .

Đền Quan thành phố Thái Bình tổ chức lễ hội vào dịp đầu năm mới ngày 16-17 tháng giêng. Những ngày này, khách về đây rất đông, người xin thẻ để xem một năm hung cát thế nào cũng nhiều. Xin kết thúc bài viết này bằng một câu của Phan Kế Bính viết trong cuốn “Việt Nam phong tục” về tục xin thẻ đầu năm như sau: “Cách đoán thẻ cũng như cách đoán thơ tiên, lắm câu viển vông mà về sau cũng có khi nghiệm”.

Bài viết có tìm hiểu thêm một số ít bài viết khác trên mạng internet .

Share this:

Thích bài này:

Thích

Đang tải…

Có thể bạn quan tâm
Alternate Text Gọi ngay
XSMB