Thú mỏ vịt – Wikipedia tiếng Việt

Thú mỏ vịt (tên khoa học: Ornithorhynchus anatinus) là một loài động vật có vú đẻ trứng bán thuỷ sinh đặc hữu của miền đông Úc, gồm cả Tasmania. Dù đã khai quật được các mẫu hoá thạch của một số loài có liên quan, thú mỏ vịt vẫn được coi là loài duy nhất còn tồn tại của họ Ornithorhynchidae và chi Ornithorhynchus.

Thú mỏ vịt là một trong năm loài đơn huyệt còn sống sót ( cùng bốn loài thuộc họ Thú lông nhím ), và cũng là loài thú có vú duy nhất đẻ trứng. Loài này có nguồn gốc từ Australasia. Cũng như các loài cùng họ, thú mỏ vịt cảm nhận con mồi bằng điện thụ quan. Thú mỏ vịt cũng là một trong số rất ít thú có độc. Cựa chân sau của thú mỏ vịt đực có năng lực tiết ra chất độc mạnh. Vẻ ngoài không bình thường của loài động vật hoang dã có vú, chân rái cá, đuôi hải ly, mỏ vịt và sinh sản bằng cách đẻ trứng này đã khiến các nhà tự nhiên học châu Âu phải hoảng sợ khi tiếp xúc lần tiên phong. Những nhà khoa học tiên phong khám nghiệm xác một con thú mỏ vịt ( năm 1799 ) thì cho rằng đó là đồ ngụy tạo từ nhiều bộ phận của các động vật hoang dã khác nhau .

Thú mỏ vịt có nhiều đặc điểm độc đáo, giúp loài này trở thành đối tượng đặc biệt quan trọng trong ngành sinh học tiến hoá và biểu trưng của Úc. Trong văn hoá một số dân tộc bản địa của Úc, loài này còn đóng vai trò thực phẩm. Thú mỏ vịt còn là linh vật của nhiều sự kiện cấp quốc gia và xuất hiện trên mặt sau đồng hai mươi xu của Úc, đồng thời là loài vật biểu tượng của bang New South Wales. Ngoài ra, series phim truyền hình Phineas and Ferb của Mỹ còn sử dụng hình tượng thú mỏ vịt cho nhân vật hư cấu Thú mỏ vịt Perry. Cho đến đầu thế kỷ XX, con người săn thú mỏ vịt để lấy bộ lông; tuy nhiên, hiện nay, loài này đã được bảo vệ trong vùng lãnh thổ tự nhiên của chúng. Dù biện pháp nhân giống nuôi nhốt chỉ đạt được vài thành quả nhất định, còn quá trình sinh trưởng của thú mỏ vịt rất dễ bị ô nhiễm môi trường ảnh hưởng, nhưng loài này không nằm trong tình trạng bị đe doạ.[a]

Tính đến năm 2020, theo luật pháp quy định, thú mỏ vịt là loài được bảo vệ ở mọi bang có khu vực sinh trưởng của loài này. Tuy nhiên, chỉ có bang Nam Úc coi thú mỏ vịt là loài nguy cấp. Tổ chức IUCN xếp thú mỏ vịt ở trạng thái sắp bị đe doạ, nhưng một báo cáo đệ trình tháng 11 năm 2020 đã đề xuất nâng mức cảnh báo lên bị đe doạ vì tình trạng mất môi trường sống và suy giảm số lượng cá thể ở tất cả các bang dựa theo Đạo luật liên bang EPBC.

Phân loại và từ nguyên[sửa|sửa mã nguồn]

Hình minh hoạ của tác giả Frederick Nodder, dựa trên bản mô tả khoa học đầu tiên về loài “Platypus anatinus” năm 1799.

Năm 1798, sau khi các nhà thám hiểm châu Âu lần đầu tiên nhìn thấy thú mỏ vịt, Thuyền trưởng John Hunter, thống đốc thứ hai của bang New South Wales đã gửi một bộ lông kèm theo bản phác thảo về Anh.[4] Ban đầu, dựa trên cảm tính, các khoa học gia người Anh cho rằng các đặc tính là nguỵ tạo.[5] George Shaw, người viết bản mô tả đầu tiên trong tác phẩm Naturalist’s Miscellany[b] năm 1799, khẳng định rằng không thể không nghi ngờ bản chất thực sự của loài này,[6] còn Robert Knox thì tin rằng đó là sản phẩm của tay nhồi xác động vật châu Á nào đó.[5][7] Loài động vật này được cho là vốn trông giống hải ly, nhưng có người đã khâu nối thêm chiếc mỏ vịt. Shaw thậm chí còn lấy kéo cắt bộ da khô để tìm vết khâu.[8]

Tên thông thường “platypus” của thú mỏ vịt trong tiếng Anh có nghĩa là “chân phẳng”. Từ này bắt nguồn từ chữ “platúpous” (“πλατύπους“) trong tiếng Hy Lạp cổ;[9] “platúpous” là từ ghép của “platús” (“πλατύς“, nghĩa là “rộng” hoặc “phẳng”)[10] và “poús” (“πούς“, nghĩa là “chân”).[11][12] Trong mô tả ban đầu, Shaw đặt tên phân loại Linnae cho loài này là Platypus anatinus.[13] Tuy nhiên, không lâu sau, người ta phát hiện ra tên này đã dùng để phân loại loài bọ cánh cứng phấn hoa rầy gỗ Platypus.[14] Năm 1800, Johann Blumenbach mô tả thú mỏ vịt với tên Ornithorhynchus paradoxus từ một tiêu bản do Sir Joseph Banks gửi.[15] Sau đó, để tuân theo các nguyên tắc ưu tiên về danh pháp, Ornithorhynchus anatinus trở thành tên khoa học chính thức của loài này.[14]

Ornithorhynchus anatinus có nghĩa đen là “mỏ giống mỏ vịt’. Trong danh pháp hai phần, tên chi của thú mỏ vịt bắt nguồn từ chữ gốc tiếng Hy Lạp “ornith-” (“όρνιθ“, nghĩa là “chim”) và rhúnkhos (“ῥύγχος“, nghĩa là “mỏ”), còn tên loài từ chữ anatinus (“giống như vịt”) trong tiếng Latinh.[16]

Trong tiếng Anh, không có dạng số nhiều nào của từ “platypus” được chấp thuận rộng rãi. Các nhà khoa học thường chỉ dùng “platypuses“, hoặc đơn giản hơn là “platypus“. Trong văn nói, từ “platypi” cũng được sử dụng làm dạng số nhiều, dù là giả-Latin;[8] nếu tuân theo quy tắc tiếng Hy Lạp thì “platypodes” mới là từ đúng. Những người Anh đầu tiên định cư ở Úc dùng rất nhiều tên khác nhau để gọi loài này, chẳng hạn như “watermole” (“chuột chũi nước”), “duckbill” (“mỏ vịt”), “duckmole” (“chuột chũi vịt”),[8] và đôi khi là “duck-billed platypus” (“platypus mỏ vịt”).

“Mặt lưng” là một thuật ngữ giải phẫu. Có thể tưởng tượng: Nếu coi rìa mỏ (phía trước) là “đầu”, thì hai lỗ mũi sẽ nằm ở “mặt lưng”.
Cơ thể và chiếc đuôi rộng, phẳng của thú mỏ vịt được bao trùm bằng một bộ lông dày màu nâu hoàn toàn có thể huỳnh quang sinh học. Giữa hai lớp này là một lớp không khí cách nhiệt để giữ ấm. [ 8 ] [ 14 ] [ 17 ] Lông thú mỏ vịt không thấm nước, có vân giống như lông chuột chũi. [ 18 ] Đuôi của thú mỏ vịt được dùng để dự trữ chất béo ( một dạng thích nghi cũng Open ở 1 số ít loài khác như quỷ Tasmania [ 19 ] ). Lớp màng giữa các ngón chân ở chi trước lớn hơn chi sau, và sẽ gập lại khi thú mỏ vịt đi trên cạn. Chiếc mõm dài và hàm dưới được lớp da mềm bao trùm, tạo thành mỏ. Lỗ mũi nằm ở mặt sống lưng của mõm, còn mắt và tai ở trong một rãnh ngay phía sau. Khi thú mỏ vịt bơi, rãnh này sẽ đóng lại. [ 14 ] Người ta đã nghe thấy thú mỏ vịt gầm gừ một tiếng nhỏ khi bị làm phiền ; trong thiên nhiên và môi trường nuôi nhốt, thú mỏ vịt còn hoàn toàn có thể phát ra một số ít loại âm thanh khác. [ 8 ]
Bản in màu hình thú mỏ vịt, năm 1863.
Trọng lượng thú mỏ vịt hoàn toàn có thể nằm trong khoảng chừng từ 0,7 đến 2,4 kg ( 1 lb 9 oz đến 5 lb 5 oz ). Con đực thường lớn hơn con cháu : chiều dài trung bình của thành viên đực là 50 cm ( 20 in ), và 43 cm ( 17 in ) ở thành viên cái. [ 14 ] Ngoài ra, kích cỡ trung bình khung hình thú mỏ vịt biến hóa đáng kể theo từng vùng. Sự độc lạ này có vẻ như không có tương quan đến bất kể quy tắc khí hậu đơn cử nào ; đây hoàn toàn có thể là hệ quả của các yếu tố khác, ví dụ như tập tính ăn thịt hoặc mất môi trường tự nhiên sống do con người xâm lấn. [ 20 ]Thân nhiệt trung bình của thú mỏ vịt xê dịch trong khoảng chừng 32 °C ( 90 °F ) so với mức 37 °C ( 99 °F ) thường thấy ở thú có nhau thai. [ 21 ] Các điều tra và nghiên cứu cho thấy đặc thù này không phải có từ xưa, mà là sự thích nghi từ từ với điều kiện kèm theo môi trường tự nhiên khắc nghiệt của 1 số ít ít loài đơn huyệt còn sót lại. [ 22 ] [ 23 ]Cá thể con của thú mỏ vịt tân tiến có ba chiếc răng ở xương hàm trên ( một răng tiền hàm, hai răng hàm ) và ba chiếc răng ở xương hàm dưới ( ba răng hàm ). Những răng này sẽ tự rụng trước hoặc ngay sau khi chúng sẽ mất trước hoặc ngay sau khi rời khỏi nơi giao phối. [ 14 ] Khi trưởng thành, thú mỏ vịt sẽ trám một lớp chất sừng gọi là ceratodonte vào chỗ răng rụng. [ 14 ] Răng thứ nhất hàm trên và răng thứ ba hàm dưới của thú mỏ vịt con khá nhỏ, có một mấu chính, ít hơn các răng khác một mấu. [ 24 ] Hàm của thú mỏ vịt có cấu trúc và cơ mở hàm không giống với các loài động vật hoang dã có vú khác. [ 14 ] Ở mọi động vật hoang dã có vú thực thụ, các xương nhỏ truyền dẫn âm thanh trong tai giữa link trọn vẹn với hộp sọ, chứ không nằm trong hàm như ở các động vật hoang dã Một cung bên trước khi tiến hóa thành thú có vú. Tuy nhiên, tai ngoài vẫn nằm ở gần điểm nối hàm. [ 14 ] Thú mỏ vịt có thêm một số ít loại xương ở đai vai, gồm có cả xương gian đòn, mà các loài thú có vú khác không có. [ 14 ] Tương đồng với nhiều động vật hoang dã có xương sống thủy sinh và bán thủy sinh, những xương này có tín hiệu bị xơ hóa làm tăng tỷ lệ xương, từ đó đóng vai trò làm vật dằn. [ 25 ] Khi đi, chân của thú mỏ vịt vận động và di chuyển ở hai bên khung hình giống với các loài bò sát. [ 14 ] Lúc trên cạn, chúng đi bằng các khớp ngón của chi trước để bảo vệ lớp màng rộng giữa các ngón. [ 26 ]
Cựa sắc ở chi sau của thú mỏ vịt đực, dùng để kích độc con mồi.

Dù cả thú mỏ vịt đực và cái đều có cựa, chỉ cựa ở con đực mới có độc.[27][28][29] Các cựa này có cấu tạo chủ yếu từ nhiều loại protein tương đồng với chất bảo vệ (“defensin-like proteins“) do hệ miễn dịch tiết ra; trong số đó, có ba loại chỉ có ở thú mỏ vịt.[30] Các chất bảo vệ vốn chỉ phân giải vi khuẩn và virus gây bệnh, nhưng ở thú mỏ vịt, chúng có thêm chức năng hình thành chất độc để tự vệ. Độc của thú mỏ vịt đủ mạnh để giết các loài thú nhỏ, chẳng hạn như chó, nhưng không có khả năng gây chết người. Tuy nhiên, nạn nhân vẫn sẽ đau đớn dữ dội và có thể mất khả năng lao động.[30][31] Triệu chứng phù sẽ lan rộng và nhanh quanh vết thương, rồi dần dần phù cả chi. Những bằng chứng truyền miệng và thông tin thu được từ nhiều vụ trước đó cho thấy cơn đau sẽ phát triển thành chứng tăng cảm giác đau (tăng độ nhạy với cơn đau); chứng này kéo dài trong nhiều ngày, thậm chí lên đến nhiều tháng.[32][33] Cơ quan tiết độc ở thú mỏ vịt đực là các tuyến đáy (crural gland) có hình giống tuyến phế nang hình quả thận nằm ở trên đùi; chúng nối với cựa ở vị trí xương gót của hai chi sau bằng một ống có thành mỏng. Giống với các loài thú lông nhím khác, thú mỏ vịt cái cũng có hai chiếc cựa nhú không phát triển (rụng trước khi lên một tuổi) và không có các tuyến đáy ở vùng đùi như con đực.[34]

Nọc của thú mỏ vịt có vẻ như có công dụng khác với nọc của các loài không phải động vật hoang dã có vú. Tác dụng của độc không đủ mạnh để gây nguy khốn đến tính mạng con người con người, nhưng vẫn hoàn toàn có thể khiến nạn nhân bị tổn thương nghiêm trọng. Vì chỉ các thành viên đực mới có độc và lượng độc tiết ra tăng mạnh trong mùa sinh sản, cựa trở thành vũ khí để giành lợi thế giao phối. [ 30 ]

Điện xác định[sửa|sửa mã nguồn]

Ngoài tối thiểu một loài cá heo, [ 35 ] động vật hoang dã đơn huyệt là những loài thú duy nhất có điện thụ quan. Chúng xác định con mồi một phần bằng cách cảm nhận điện trường do việc co thắt cơ bắp gây ra. Khả năng thụ cảm điện của thú mỏ vịt là nhạy cảm nhất trong số các loài đơn huyệt. [ 36 ] [ 37 ]Trên mỏ của thú mỏ vịt, các thụ quan điện xếp thành các hàng dọc theo lớp da bao quanh, còn thụ quan cơ học ( xúc giác ) lại phân bổ khá đồng đều. Vùng cảm xúc điện của vỏ đại não nằm bên trong các vùng cảm xúc thân thể, và 1 số ít tế bào vỏ não tiếp đón thông tin từ cả thụ quan điện và thụ quan cơ, cho thấy cảm xúc xúc giác và cảm xúc điện có link ngặt nghèo với nhau. Cả thụ quan điện và thụ quan cơ ở mỏ đều có vai trò rất quan trọng với map tương ứng não-thân trong não thú mỏ vịt, tương tự như với vai trò của hai bàn tay người trong đồ hình Penfield. [ 38 ] [ 39 ]Thú mỏ vịt hoàn toàn có thể xác lập được hướng Open nguồn điện, có lẽ rằng bằng cách so sánh cường độ tín hiệu ở các thời gian khác nhau trên phổ thông tin nhận được từ thụ quan điện. Cách lý giải này cũng tương thích với hoạt động đầu đặc trưng từ bên này sang bên kia khi đang săn mồi của thú mỏ vịt. Việc các vùng điện thụ cảm và xúc giác giao nhau ở vỏ não cho thấy chính sách xác lập khoảng cách tương đối của con mồi ở loài này : khi chuyển dời, chúng phát ra đồng thời cả tín hiệu điện và xung áp cơ học, rồi dùng sự độc lạ giữa thời hạn phản xạ tín hiệu để cảm nhận khoảng cách. [ 40 ]Thú mỏ vịt không sử dụng thị và khứu giác để kiếm ăn : [ 41 ] chúng sẽ nhắm mắt, đóng tai và mũi khi lặn. [ 42 ] Khi thú mỏ vịt hướng đến đáy sông bằng mỏ, các thụ quan điện sẽ phát hiện những dòng điện rất nhỏ do các cơn co thắt cơ ở con mồi gây ra, từ đó được cho phép phân biệt các vật thể bất động và động vật hoang dã – thứ sẽ liên tục kích thích thụ quan cơ. [ 43 ] Nhiều thí nghiệm đã chỉ ra rằng thú mỏ vịt thậm chí còn sẽ phản ứng với một ” con tôm ” tự tạo có dòng điện nhỏ chạy qua. [ 44 ]

Khả năng điện định vị của các loài đơn huyệt có lẽ đã phát triển để giúp chúng tìm thức ăn trong các vùng đầm lầy, và có thể liên quan đến việc thoái hoá răng.[45] Loài Obdurodon đã tuyệt chủng cũng có điện thụ quan, nhưng khác với loài thú mỏ vịt hiện đại, chúng kiếm ăn ở vùng mặt nước biển.[45]

Một số điều tra và nghiên cứu gần đây cho rằng mắt của thú mỏ vịt có điểm tương đương với mắt cá mút đá myxin Thái Bình Dương hoặc cá mút đá không răng ở vùng Bắc bán cầu hơn so với mắt của hầu hết động vật hoang dã bốn chân. Mắt thú mỏ vịt cũng có các tế bào nón đôi mà đại đa số thú có vú không có. [ 46 ]Dù mắt thú mỏ vịt khá nhỏ và không được dùng khi chúng lặn, nhưng một số ít đặc thù cho thấy thị giác từng có vai trò rất quan trọng với tổ tiên của loài này. Mặt giác mạc và mặt tiếp xúc của thể thủy tinh khá phẳng, nhưng mặt sau của thể thủy tinh lại cong dốc, giống mắt các loài thú thủy sinh khác, ví dụ điển hình như rái cá và sư tử biển. Xương thái dương ( phía tai ) quy tụ các tế bào hạch võng mạc thiết yếu với thị giác hai bên mắt, cho thấy tầm quan trọng trong việc săn mồi. Tuy nhiên, độ nhạy thị lực lại không đủ cho những hoạt động giải trí như vậy. Hơn nữa, độ nhạy hạn chế này còn tương ứng với mức khuếch đại vỏ não thấp, hạch gối ngoài nhỏ và mái thị giác lớn, cho thấy trung não thị giác của thú mỏ vịt có vai trò quan trọng hơn so với vỏ não thị giác, giống như ở một số ít loài gặm nhấm. Những đặc tính này cho thấy thú mỏ vịt đã thích nghi với lối sống thủy sinh và về đêm bằng cách tăng trưởng mạng lưới hệ thống điện thụ quan, nhưng thoái triển thị giác. Quá trình tiến hóa này tương đương với sự hình thành một số lượng nhỏ thụ quan điện ở loài thú lông nhím mỏ ngắn ( sống ở nơi khô ráo ), và thú lông nhím mỏ dài ( sống ở nơi khí ẩm ) chính là điểm trung gian giữa hai loài đơn huyệt kia. [ 38 ]

Huỳnh quang sinh học[sửa|sửa mã nguồn]

Năm 2020, một nghiên cứu và điều tra về huỳnh quang sinh học cho thấy thú mỏ vịt ( và 1 số ít loài đơn huyệt khác ) có năng lực phát sáng khi tiếp xúc với ánh sáng đen có màu lục lam. [ 47 ]

Phân bố, sinh thái xanh và hành vi[sửa|sửa mã nguồn]

Cấu trúc răng, minh hoạ trong Bản phác thảo Lịch sử Tự nhiên của Knight.
Rất khó tìm được thú mỏ vịt, ngay cả khi nó đang bơi trên mặt sông.
Một con thú mỏ vịt đang bơi, màng ở các chi mở rộng.
Thú mỏ vịt đang lặn ở Công viên Thuỷ sinh Sydney, Úc.
Thú mỏ vịt là loài bán thủy sinh, phân bổ ở các sông và suối nhỏ trên khoanh vùng phạm vi rất lớn, từ vùng cao nguyên lạnh buốt của Tasmania và dãy núi Alps ( Úc ) đến các khu rừng mưa nhiệt đới gió mùa ở ven biển Queensland, và cả về rìa bán đảo Cape York ở phía bắc. [ 48 ] Trên cạn, vùng phân bổ của thú mỏ vịt không rõ ràng. Sau lần phát hiện cuối tại Renmark vào năm 1975, người ta cho rằng loài này đã tuyệt chủng ở lục địa Nam Úc. [ 49 ] [ c ] Người ta không còn tìm thấy con thú mỏ vịt nào còn sống trong vùng chính của lưu vực Murray-Darling. Nguyên nhân hoàn toàn có thể là do các chương trình giải phóng mặt phẳng và thủy lợi trên diện rộng làm giảm chất lượng nước. [ 55 ] Sự phân bổ của thú mỏ vịt ở các mạng lưới hệ thống sông ngòi ven biển cũng rất khó đoán. Chúng không sinh sống ở nhiều con sông chưa bị ô nhiễm, nhưng lại Open ở 1 số ít nơi đã bị tác động ảnh hưởng, ví dụ điển hình như hạ lưu sông Maribyrnong. [ 56 ]Những con thú mỏ vịt hoang dã được đưa về khu nuôi nhốt khi đã khoảng chừng 11 tuổi hoàn toàn có thể liên tục sống thọ đến 17 năm. Trong tự nhiên, tử suất của các thành viên thú mỏ vịt trưởng thành cũng khá thấp. [ 14 ] Thiên địch tự nhiên của loài này gồm có rắn, chuột nước, nhông Úc, diều hâu, cú và đại bàng. Ở miền bắc Úc, số lượng thú mỏ vịt không nhiều, hoàn toàn có thể là vì bị cá sấu ăn thịt. [ 57 ] Việc loài cáo đỏ gia nhập vào lục địa năm 1845 vì mục tiêu làm giảm số lượng thỏ có lẽ rằng đã có tác động ảnh hưởng đến số lượng thú mỏ vịt. [ 20 ] Thú mỏ vịt thường được coi là loài ăn về đêm và lúc chạng vạng, nhưng 1 số ít con cũng hoạt động giải trí vào ban ngày. [ 58 ] [ 59 ] Môi trường sống của chúng link giữa sông ngòi ( phân phối thức ăn ) và khu vực ven sông ( nơi đào hang và làm tổ ). [ 59 ] Lãnh thổ của một con thú mỏ vịt hoàn toàn có thể lên đến 7 km ( 4,3 mi ) ; thường thì, chủ quyền lãnh thổ của một con đực sẽ giao với chủ quyền lãnh thổ của ba hoặc bốn con cháu khác. [ 60 ]Thú mỏ vịt bơi rất tốt và thường dành phần đông thời hạn dưới nước để kiếm ăn. Chúng có kiểu bơi khá đặc biệt quan trọng và không có vành tai. [ 61 ] Trong số tổng thể các loài có vú, thú mỏ vịt là loài duy nhất bơi bằng cách dùng chân trước để quạt nước. Dù cả bốn chi của chúng đều có màng, nhưng hai chi sau ( giữ sát thân ) không đẩy nước, mà dùng đồng thời với đuôi để đổi hướng. [ 62 ] Vì là động vật hoang dã nội nhiệt, nhiệt độ khung hình của thú mỏ vịt được duy trì quanh mức 32 °C ( 90 °F ), thấp hơn so với hầu hết các loài động vật hoang dã có vú, ngay cả khi kiếm ăn nhiều giờ dưới nước có nhiệt độ thấp hơn 5 °C ( 41 °F ). [ 14 ]Thú mỏ vịt thường chỉ lặn khoảng chừng hơn 30 giây một lần và rất ít khi vượt quá số lượng giới hạn ưa khí ước tính 40 giây. Thời gian nghỉ trên mặt nước giữa các lần lê dài từ 10 đến 20 giây. [ 63 ] [ 64 ]Khi không bơi dưới nước, thú mỏ vịt sẽ chui vào trong một cái hang thẳng và ngắn, xuất hiện cắt ngang hình bầu dục để nghỉ ngơi. Hang này thường nằm gần bờ sông, không quá cao hơn mực nước, và được ngụy trang bằng một mớ rễ cây để bảo vệ. [ 61 ]

Thú mỏ vịt là động vật ăn thịt. Thức ăn của loài này chủ yếu là giun đốt, ấu trùng, tôm nước ngọt và cherax (tôm hùm đất). Chúng kiếm mồi bằng cách dùng mỏ đào bới đáy sông hoặc săn được khi bơi. Sau khi tìm được mồi, chúng đẩy mồi vào túi má, ngoi lên mặt nước rồi mới ăn.[61] Lượng thức ăn một con thú mỏ vịt tiêu thụ trong một ngày tương đương khoảng 20% trọng lượng cơ thể, nên thời gian săn mồi của loài này chiếm đến 12 tiếng một ngày.[63]

Tổ thú mỏ vịt và trứng (mô hình).
Vào lần tiên phong phát hiện thú mỏ vịt, các nhà tự nhiên học châu Âu đã tranh cãi về việc con cháu có đẻ trứng hay không. Năm 1884, sau một cuộc tìm kiếm dài, William Hay Caldwell cùng đội tương hỗ gồm 150 thổ dân địa phương đã phát hiện ra một số ít trứng. [ 14 ] [ 30 ]Thú mỏ vịt chỉ giao phối và sinh sản vào một mùa duy nhất từ tháng 6 đến tháng 10 hằng năm ; khoảng chừng thời hạn này hoàn toàn có thể đổi khác tùy theo các quần thể khác nhau ở các khu vực phân bổ khác nhau. [ 57 ] Nhiều nghiên cứu và điều tra quan sát, lưu lại và bắt lại trước đây cùng các tìm hiểu sơ bộ về di truyền trong quần thể đã cho thấy năng lực sống sót của cả các nhóm thời gian ngắn và dài hạn trong khoanh vùng phạm vi quần thể, cũng như mạng lưới hệ thống giao phối đa thê. [ 65 ] Các thành viên cái khởi đầu thuần thục vào tuổi thứ hai ; quy trình phối giống được xác nhận là vẫn hoàn toàn có thể xảy ra ở những con trên chín tuổi. [ 65 ]Ngoài mùa giao phối, thú mỏ vịt thường sống ở một cái hang nông trong đất ; lối vào cách mặt nước khoảng chừng 30 cm ( 12 in ). Sau khi giao phối, con cháu sẽ đào một cái hang sâu và phức tạp hơn, hoàn toàn có thể lên đến 20 m ( 66 ft ), rồi chặn đường nối hai hang lại. Việc này giúp chống thủy triều dâng ngập hang và các loài săn mồi, cũng như kiểm soát và điều chỉnh nhiệt độ và nhiệt độ. [ 66 ] Con đực không chăm nom con non, nên sẽ lui về hang cũ của mình, còn con cháu thì lót lá chết đã ẩm lên nền hang để làm tơi đất. Nó luân chuyển lá rụng và lau sậy về tổ bằng cách cuộn chúng trong chiếc đuôi lớn, rồi lấp đầy đoạn cuối đường hầm để làm ổ. [ 8 ]Thú mỏ vịt cái có hai buồng trứng, nhưng chỉ buồng trứng bên trái hoàn toàn có thể thụ tinh. [ 58 ] Gen của thú mỏ vịt hoàn toàn có thể là mối link tiến hóa giữa hai mạng lưới hệ thống xác lập giới tính XY ( ở động vật hoang dã có vú ) và ZW ( ở chim và bò sát ), vì một trong số năm nhiễm sắc thể X của thú mỏ vịt chứa loại gen DMRT1 cũng Open ở nhiễm sắc thể Z của chim. [ 67 ] Thú mỏ vịt thường đẻ mỗi lần từ một đến ba quả trứng nhỏ, nhiều lông ( giống như trứng bò sát ), có đường kính khoảng chừng 11 mm ( 0,43 in ) và hơi tròn hơn so với trứng chim. [ 68 ] Quá trình tăng trưởng trong tử cung của trứng lê dài khoảng chừng 28 ngày, còn thời hạn ấp ngoài là 10 ngày. [ 58 ] Thời gian ấp được chia làm ba quá trình. [ 69 ] Trong quy trình tiến độ đầu, phôi không có cơ quan chức năng và phải lấy chất dinh dưỡng từ túi noãn hoàng. Suốt quy trình tăng trưởng, con non sẽ hấp thụ noãn hoàng. [ 70 ] Các ngón và răng trứng sẽ lần lượt hình thành trong tiến trình thứ hai và thứ ba. [ 71 ]Những con thú mỏ vịt mới nở rất dễ bị thương, không hề tiếp đón thông tin từ thị giác và không có lông, uống sữa mẹ để sống. Dù có tuyến vú, nhưng thú mỏ vịt lại không có núm vú. Do đó, sữa sẽ tiết qua lỗ chân lông, rồi đọng lại ở các rãnh trên bụng. [ 8 ] [ 57 ] Sau khi nở, con non được cho bú khoảng chừng từ ba đến bốn tháng. Trong suốt thời hạn ấp trứng và cai sữa cho con, bắt đầu, thú mỏ vịt mẹ chỉ rời hang để kiếm ăn trong thời hạn ngắn. Khi đi khỏi tổ, nó sẽ bới một số ít đụn đất nhỏ bít kín đường ra cửa hang, có lẽ rằng vì để bảo vệ con khỏi thú săn mồi. Lúc về hang, thú mỏ vịt mẹ sẽ chui qua những lớp đất này ; đất sẽ đẩy nước khỏi lông, giúp hang không bị ướt. [ 72 ] Sau khoảng chừng năm tuần, thú mỏ vịt mẹ sẽ đi khỏi hang nhiều hơn, và khi đã đủ bốn tháng tuổi, con non sẽ ra khỏi hang. [ 57 ] Thú mỏ vịt có răng ngay từ khi sinh ra, nhưng những chiếc răng này sẽ nhanh gọn rụng đi, rồi thay bằng các mảng sừng dùng để nghiền thức ăn. [ 73 ]
Hiện người ta mới chỉ biết được rất ít thông tin về thú mỏ vịt và các loài khác thuộc bộ đơn huyệt. Nhiều người vẫn tin vào một số ít truyền thuyết thần thoại Viral từ thế kỷ XIX, ví dụ như việc động vật hoang dã đơn huyệt là các loài ” hạ cấp ” hoặc bán bò sát. [ 75 ] Năm 1947, William King Gregory giả thuyết rằng động vật hoang dã có vú có nhau thai và thú có túi hoàn toàn có thể đã phân hướng sớm hơn, và một nhánh con đã chia thành bộ Đơn huyệt và phân thứ lớp Thú có túi ; sau này, các điều tra và nghiên cứu và khảo cứu hóa thạch cho thấy thuyết trên không đúng mực. [ 75 ] [ 76 ] Trên trong thực tiễn, bộ Đơn huyệt văn minh là những loài sống sót ở đầu cuối của một nhánh phân hướng khỏi động vật hoang dã có vú từ rất xưa, còn các phân thứ lớp Thú có nhau thai và Thú có túi thì bắt nguồn từ một nhánh cận đại hơn. [ 75 ] [ 77 ] Theo đồng hồ đeo tay phân tử và niên đại hóa thạch, thú mỏ vịt đã tách ra khỏi họ Thú lông nhím khoảng chừng 19 đến 48 triệu năm trước. [ 78 ]
Tái hiện họ hàng cổ đại của thú mỏ vịt, Steropodon.

Mẫu hoá thạch thú mỏ vịt hiện đại cổ xưa nhất có niên đại khoảng 100.000 năm, vào kỷ Đệ Tứ. Hai loài đơn huyệt đã tuyệt chủng TeinolophosSteropodon từng được cho là có liên quan mật thiết với thú mỏ vịt hiện đại,[76] nhưng hiện nay, chúng nằm ở vị trí phân loại cao hơn.[79] Hoá thạch Steropodon người ta phát hiện được ở New South Wales có một xương hàm dưới bị khoáng chất hoá và ba chiếc răng hàm tạo bởi một xương hàm dưới có mắt với ba chiếc răng hàm (thú mỏ vịt hiện đại không có răng). Ban đầu, người ta nghĩ rằng những chiếc răng hàm này có ba đỉnh; ý niệm này củng cố cho một thuyết biến thể từ giả thuyết nguyên bản của Gregory. Tuy nhiên, các nghiên cứu sau này đã cho thấy rằng: dù những chiếc răng này có ba đỉnh, nhưng chúng lại tiến hoá theo một quá trình riêng biệt.[80] Mẫu hoá thạch được cho là có niên đại khoảng 110 triệu năm tuổi; đây cũng là mẫu hoá thạch động vật có vú lâu đời nhất từng được phát hiện ở Úc. Khác với thú mỏ vịt hiện đại (và các loài thú lông nhím), Teinolophos không có mỏ.[79]
Người ta cũng tìm thấy mẫu hoá thạch của Monotrematum sudamericanum, một họ hàng khác của thú mỏ vịt, ở Argentina; điều này cho thấy các loài đơn huyệt đã sống ở siêu lục địa Gondwana, vào thời kỳ hai lục địa Nam Mỹ và Úc còn liền nhau thông qua Nam Cực (hơn 167 triệu năm trước).[80][81] Hoá thạch một chiếc răng của loài thú mỏ vịt khổng lồ, Obdurodon tharalkooschild, có niên đại từ 5 đến 15 triệu năm trước; dựa trên kích thước mẫu răng, các nhà khoa học ước tính con vật dài đến 1,3 mét, là con thú mỏ vịt lớn nhất từng được ghi nhận.[82]

Cấu trúc xương của thú mỏ vịt.

Do phân hướng sớm với phân lớp Thú bậc cao và số ít các loài đơn huyệt khác còn tồn tại, thú mỏ vịt là đối tượng nghiên cứu thường xuyên của ngành sinh học tiến hoá. Năm 2004, các nhà nghiên cứu của Đại học Quốc gia Úc đã phát hiện ra thú mỏ vịt có đến mười nhiễm sắc thể giới tính, nhiều hơn hẳn so với hai (XY) ở đại đa số các loài động vật có vú khác. Mười nhiễm sắc thể này tạo thành năm cặp XY và XX duy nhất lần lượt ở cá thể đực và cái. Cụ thể, trình tự nhiễm sắc thể ở con đực là X1Y1X2Y2X3Y3X4Y4X5Y5.[83] Một trong số các nhiễm sắc thể X của thú mỏ vịt có sự tương đồng rất lớn với nhiễm sắc thể Z ở chim.[84] Hệ gen của thú mỏ vịt cũng có các gen liên quan đến quá trình trứng thụ tinh của cả bò sát và động vật có vú.[41][85] Dù thú mỏ vịt không có gen xác định giới tính SRY[d] của động vật có vú, một nghiên cứu đã cho thấy cơ chế xác định giới tính ở con non là gen AMH trên nhiễm sắc thể Y lâu đời nhất.[86][87] Ngày 8 tháng 5 năm 2008, tạp chí Nature công bố một bản phác thảo trình tự gen của thú mỏ vịt, cho thấy chúng có nhiều tính chất tương đồng với cả bò sát và thú có vú, cũng như hai loại gen khác mà trước đó người ta chỉ thấy ở cá, chim và động vật lưỡng cư. Hơn 80% mã gen của thú mỏ vịt giống với gen của các loài có vú khác đã được giải mã.[41] Năm 2021, một hệ gen mới và đầy đủ nhất từ trước đến nay của thú mỏ vịt đã được công bố (cùng với loài thú lông nhím mỏ ngắn).[88]

Hình minh hoạ thú mỏ vịt trong một cuốn sách dành cho trẻ em, xuất bản ở Đức năm 1798.

Tình trạng và các mối rình rập đe dọa[sửa|sửa mã nguồn]

Khu vực phân bổ chung của thú mỏ vịt lúc bấy giờ không khác thời kỳ trước khi người châu Âu đến định cư ở Úc, trừ việc loài này không còn Open ở bang Nam Úc. Tuy nhiên, vì thiên nhiên và môi trường sống chịu ảnh hưởng tác động từ con người, sự phân bổ của thú mỏ vịt đã nhiều lần đổi khác ( theo địa phương ) và chia nhỏ khu vực sống. Khoa học văn minh vẫn chưa biết số lượng thành viên trước kia của thú mỏ vịt, cũng như rất khó nhìn nhận thực trạng lúc bấy giờ. Tuy nhiên, số thú mỏ vịt có vẻ như đã giảm đi, dù vẫn có rất nhiều thành viên sống sót trong các vùng phân bổ của loài này, tính đến năm 1998. [ 59 ] Cho đến những năm đầu của thế kỷ XX, loài này bị con người săn bắt tiếp tục để lấy lông ; và, dù đã được bảo vệ trên toàn nước Úc từ năm 1905, [ 72 ] trong khoảng chừng 45 năm sau đó, thú mỏ vịt vẫn chịu nhiều nguy khốn vì bị kẹt trong mạng lưới thủy hải sản trên lục địa. [ 89 ]Theo Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế, thực trạng bảo tồn của thú mỏ vịt là ” Sắp bị rình rập đe dọa “. [ 90 ] Tuy thú mỏ vịt được lao lý bảo vệ, Nam Úc là bang duy nhất đưa loài này vào list loài ” Nguy cấp “, theo Đạo luật Vườn Quốc gia và Động vật Hoang dã ( 1972 ). Một khuyến nghị năm 2020 cho rằng nên xếp thú mỏ vịt vào loài Sắp nguy cấp của bang Victoria theo Đạo luật Bảo đảm Động thực vật ( 1988 ). [ 91 ]

Phá hủy thiên nhiên và môi trường sống[sửa|sửa mã nguồn]

Nhờ có các giải pháp bảo tồn, thú mỏ vịt không bị nguy cấp trọn vẹn hay tuyệt chủng, nhưng vẫn hoàn toàn có thể bị ảnh hưởng tác động xấu đi từ môi trường tự nhiên sống bị tàn phá vì đập, các khu công trình thủy lợi, ô nhiễm, đánh lưới và bẫy. Hạn hán tiếp tục và khai thác nước cho các nhu yếu như nông nghiệp, công nghiệp hay hoạt động và sinh hoạt đã làm giảm lưu lượng dòng chảy và mực nước, trở thành một mối rình rập đe dọa so với thú mỏ vịt. Năm năm nay, Sách đỏ của IUCN xếp thú mỏ vịt vào nhóm loài ” Sắp bị rình rập đe dọa ” ; họ ước tính số lượng thành viên của loài này đã giảm đi khoảng chừng 30 % từ khi người châu Âu đến định cư ở Úc. Loài động vật hoang dã này được coi là có rủi ro tiềm ẩn tuyệt chủng ở Nam Úc, nhưng Đạo luật liên bang EPBC không có pháp luật gì giúp giải quyết và xử lý yếu tố trên. [ 92 ] [ 93 ]Trong nhiều năm, các nhà nghiên cứu đã bày tỏ lo lắng vì cho rằng số lượng thành viên giảm đi nhiều hơn ước tính. [ 92 ] Tháng 1 năm 2020, các nhà nghiên cứu từ Đại học New South Wales đã đưa ra nhiều vật chứng cho thấy thú mỏ vịt có rủi ro tiềm ẩn bị tuyệt chủng : khai thác tài nguyên nước, phá rừng, đổi khác khí hậu và hạn hán nghiêm trọng. [ 94 ] [ 95 ] Nghiên cứu cũng Dự kiến rằng, nếu liên tục bị rình rập đe dọa như lúc bấy giờ, trong 50 năm tới, số lượng thành viên thú mỏ vịt sẽ giảm khoảng chừng 47 đến 66 %, còn mức cư trú trong siêu quần thể sẽ giảm khoảng chừng 22 đến 32 %, khiến ” các quần thể tuyệt chủng trên khoảng chừng 40 % khu vực phân bổ “. Theo dự báo biến hóa khí hậu, việc môi trường tự nhiên bị hạn hán hủy hoại sẽ dẫn đến suy giảm 51 đến 73 % số lượng thành viên và giảm 36 – 56 % tỷ suất cư trú. Những Dự kiến trên cho thấy loài sẽ thuộc nhóm ” Sắp nguy cấp “. Các tác giả nhấn mạnh vấn đề rằng, để bảo vệ thiên nhiên và môi trường sống khỏe mạnh của thú mỏ vịt, nhà nước cần phải tương hỗ bảo tồn, hoàn toàn có thể gồm có cả việc triển khai thêm nhiều lần khảo sát, theo dõi khuynh hướng, giảm thiểu rình rập đe dọa và khắt khe hơn trong quản trị sông ngòi. [ 96 ] Đồng tác giả Gilad Bino cũng lo lắng rằng ước tính sơ bộ năm năm nay hoàn toàn có thể sai, và tính đến nay, số lượng trong thực tiễn đã giảm đi 50%. [ 92 ]Tháng 11 năm 2020, các nhà khoa học từ Đại học New South Wales, do Quỹ Bảo tồn Úc hỗ trợ vốn, phối hợp với Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên ở Úc và Thương Hội Nhân đạo Quốc tế Úc, báo cáo giải trình rằng thiên nhiên và môi trường sống của thú mỏ vịt đã hẹp đi 22 % trong vòng 30 năm trước đó, đồng thời khuyến nghị xếp thú mỏ vịt vào nhóm loài Bị rình rập đe dọa, theo Đạo luật EPBC. [ 97 ] Ở New South Wales, số lượng thành viên suy giảm mạnh nhất, đặc biệt quan trọng là vùng lưu vực Murray-Darling. [ 91 ] [ 98 ] [ 99 ]

Nhìn chung, trong tự nhiên, thú mỏ vịt ít khi mắc bệnh; tuy nhiên, vào năm 2008, nhiều người ở Tasmania đã lo ngại về những tác động có thể có do một căn bệnh bắt nguồn từ nấm Mucor amphiborum gây ra. Căn bệnh này (tên chính thức là Mucormycosis, còn gọi là bệnh nấm đen) chỉ ảnh hưởng đến thú mỏ vịt Tasmania; người ta chưa ghi nhận được ảnh hưởng nào ở loài thú mỏ vịt trên lục địa. Những con mắc bệnh sẽ bị loét hoặc tổn thương da trên nhiều bộ phận khác nhau, chẳng hạn như lưng, đuôi và chân. Bệnh gây tử vong cho thú mỏ vịt cả trực tiếp (ảnh hưởng đến khả năng duy trì thân nhiệt và kiếm ăn) và gián tiếp (nhiễm trùng thứ cấp). Chi nhánh Bảo tồn Đa dạng Sinh học tại Sở Các Ngành công nghiệp Chính và Nước đã phối hợp với nhóm nghiên cứu từ Đại học Tasmania để xác định hệ quả của căn bệnh này đối với thú mỏ vịt Tasmania, cũng như cơ chế truyền dẫn và lây lan của bệnh.[100]

Thú mỏ vịt trong các khu bảo tồn động vật hoang dã hoang dã[sửa|sửa mã nguồn]

Năm 1939, nhiều người đã biết đến thú mỏ vịt qua một bài báo nói về loài này, cùng nỗ lực nghiên cứu và điều tra và nuôi dưỡng trong môi trường tự nhiên nuôi nhốt, đăng trên tạp chí Hội Địa lý Quốc gia Hoa Kỳ. Việc điều tra và nghiên cứu và nuôi dưỡng rất khó triển khai ; từ đó đến nay, chỉ có một vài con non sống đến tuổi trưởng thành, nhiều nhất là tại Khu bảo tồn Healesville ( Victoria ). David Fleay, một nhân vật tiên phong, đã thiết lập ” platypusary ” ( bể mô phỏng dòng chảy ) ở Khu bảo tồn Healesville ; chính ở khu này, năm 1943, thú mỏ vịt lần tiên phong được nhân giống thành công xuất sắc. [ 101 ] Năm 1972, ông tìm thấy một con non khoảng chừng 50 ngày tuổi đã chết, có lẽ rằng được sinh ra trong môi trường tự nhiên nuôi nhốt, tại khu vui chơi giải trí công viên động vật hoang dã hoang dã của ông ở Burleigh Heads, thành phố Gold Coast, Queensland. [ 102 ] Với một bể chứa tựa như, Healesville liên tục nhân giống thành công xuất sắc vào các năm 1998 và 2000. [ 103 ] Từ 2008 đến nay, thú mỏ vịt đã sinh sản liên tục tại Healesville, [ 104 ] gồm có cả thế hệ thứ hai ( những con được sinh ra trong thiên nhiên và môi trường nuôi nhốt tự sinh sản trong điều kiện kèm theo nuôi nhốt ). [ 105 ] Sở thú Taronga ở Sydney cũng nhân giống thành công xuất sắc hai lần : 2003 và 2006. [ 103 ]

Mối quan hệ với con người[sửa|sửa mã nguồn]

Một chiếc áo choàng làm từ lông thú mỏ vịt, chế tác năm 1890. Năm 1985, bà F. Smith, chủ nhân của chiếc áo này, đã hiến tặng nó cho Phòng Triển lãm Quốc gia Victoria.
Thổ dân Úc từng săn thú mỏ vịt làm thức ăn ( chiếc đuôi trữ mỡ của chúng đặc biệt quan trọng bổ dưỡng ). Sau khi thuộc địa hóa, thực dân châu Âu săn bắt chúng để lấy lông từ cuối thế kỷ XIX đến tận năm 1912, sau khi hành vi này bị pháp lý nghiêm cấm. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu châu Âu cũng bắt và giết thú mỏ vịt, hoặc lấy trứng, một phần vì nguyên do khoa học, nhưng phần khác là vì muốn tạo uy thế và cạnh tranh đối đầu với đối thủ cạnh tranh từ các vương quốc khác. [ 91 ]

Thú mỏ vịt trong văn hóa truyền thống[sửa|sửa mã nguồn]

Tượng thú mỏ vịt bằng gỗ ở Australian Axeman’s Hall of Fame.
Tem bưu chính 9d, phát hành lần đầu năm 1937.
Thú mỏ vịt là chủ đề trong nhiều câu truyện Mộng thời của thổ dân Úc. Một số thị tộc còn tin rằng loài này là con lai của vịt và chuột nước. [ 106 ] : 57 – 60Theo một câu truyện được truyền lại ở vùng thượng lưu sông Darling, [ 91 ] các phe động vật hoang dã lớn – gồm các loài trên cạn, các loài dưới nước và chim – đều tranh giành để mời thú mỏ vịt gia nhập. Tuy nhiên, sau cuối, thú mỏ vịt lại quyết định hành động không tham gia bất kể phe nào vì cảm thấy tự mình hoàn toàn có thể đặc biệt quan trọng mà không cần phải gia nhập, [ 106 ] : 83 – 85 đồng thời vẫn liên tục làm bạn với muôn loài. [ 91 ] Trong một chuyện Mộng thời khác, cũng ở vùng thượng lưu Darling, một con vịt con đã đi chơi quá xa mà không nhớ đến những gì bầy đàn đã dặn và bị một con chuột nước lớn tên là Biggoon bắt cóc. Sau một thời hạn, vịt trốn được, rồi quay về và đẻ hai quả trứng, từ đó nở ra hai sinh vật có lông kỳ lạ. Sau đó, các nhân vật bị bộ tộc đuổi đi và phải lên núi sống. [ 91 ]Một số thị tộc thổ dân địa phương Úc cũng dùng hình tượng thú mỏ vịt làm vật tổ. Người Wadi Wadi, những thổ dân sống dọc theo sông Murray, coi thú mỏ vịt là vật tổ động vật hoang dã của mình. Vì ý nghĩa văn hóa truyền thống và tầm quan trọng của thú mỏ vịt có tương quan đến cảm nhận về vương quốc, chúng được dân địa phương bảo vệ. [ 91 ]Thú mỏ vịt cũng thường được dùng làm biểu trưng cho truyền thống văn hóa truyền thống Úc. Trong những năm 1940, người ta khuyến mãi thú mỏ vịt sống cho các liên minh trong Thế chiến II, nhằm mục đích tăng cường quan hệ và nâng cao ý thức. [ 91 ]Nhiều thiêng vật của các sự kiện quốc tế đã lấy tạo hình thú mỏ vịt : Thú mỏ vịt Syd – một trong ba linh vật của Thế vận hội Mùa hè năm 2000 ở Sydney ( hai linh vật còn lại là Thú lông nhím Millie và Chim dacelo Olly ), Thú mỏ vịt Expo Oz – linh vật cho Hội chợ Thế giới 88 ( tổ chức triển khai ở thành phố Brisbane, năm 1988 ), [ 107 ] và Thú mỏ vịt Hexley – linh vật của hệ điều hành quản lý Darwin. [ 108 ]Từ sau khi tiền tệ thập phân gia nhập vào Úc năm 1966, hình một con thú mỏ vịt do Stuart Devlin phong cách thiết kế và được chạm nổi đã Open trên mặt sau của đồng hai mươi xu. [ 109 ] Thú mỏ vịt liên tục Open trên các bộ tem bưu chính của Úc. Hai loạt gần nhất có hình loài này là ” Động vật Bản địa ” ( năm ngoái ) và ” Động vật Đơn huyệt Úc ” ( năm nay ) [ 110 ] [ 111 ]

Trong series phim hoạt hình Phineas and Ferb (2007–2015) của Mỹ, hai nhân vật chính nuôi một con thú mỏ vịt có tên Perry, mà không hề biết đó là một mật vụ. Các tác giả lựa chọn tạo hình thú mỏ vịt vì “chẳng ai biết gì mấy [về thú mỏ vịt]”,[112] nên họ có thể “bịa ra nhiều điều” với bản thảo trống trơn trong tay.[113] Nhân vật này đã được cả khán giả và giới chuyên môn đánh giá rất tích cực.[114][115]

Chú giải và tìm hiểu thêm[sửa|sửa mã nguồn]

Phim tài liệu[sửa|sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Có thể bạn quan tâm
Alternate Text Gọi ngay
XSMB