Nhìn lại cuộc khởi nghĩa của Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực
Bùi Thụy Đào Nguyên
Nguyễn Trung Trực ( 阮忠直 ) ( 1839 – 1868 ) ( 1 ) là vị thủ lĩnh trào lưu khởi nghĩa chống Pháp ở Tân An ( nay thuộcLong An ) và Rạch Giá ( nay thuộc Kiên Giang ), cuối thế kỷ 19 tại Nam Kỳ .
I. Cuộc đời
Sinh ra dưới thời Minh Mạng, thuở nhỏ ông có tên là Chơn, từ năm Kỷ Mùi 1859 đổi là ”’Lịch”’ (Nguyễn Văn Lịch), và cũng từ tên Chơn ấy cộng với tính tình ngay thật, nên thầy dạy học của ông đặt tên hiệu cho ông là Trung Trực(2)
Nguyên quán gốc Nguyễn Trung Trực ở xã Vĩnh Hội, huyện Phù Cát, tỉnh Tỉnh Bình Định. Ông nội là Nguyễn Văn Đạo, cha là Nguyễn Văn Phụng tức Thăng, mẹ là bà Lê Kim Hồng .
Sau khi thủy quân Pháp nhiều lần bắn phá duyên hải Trung Bộ, mái ấm gia đình ông phải phiêu bạt vào Nam, định cư ở xóm Nghề ( một xóm trước đây chuyên nghề chài lưới ), làng Bình Nhựt, tổng Cửu Cư Hạ, huyện Cửu An, Phủ Tân An ( nay thuộc ngoại ô thị xã Tân An, tỉnh Long An ) và sinh sống bằng nghề chài lưới vùng hạ lưu sông Vàm Cỏ. Không rõ năm nào, lại dời lần nữa xuống làng Tân Thuận, tổng An Xuyên. ( nay là xã Tân Tiến, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau )
Lúc nhỏ, ông rất hiếu động, thích học võ nên khi lớn lên ông là người có thể lực khỏe mạnh, giỏi võ nghệ và là người có nhiều can đảm và mạnh mẽ, mưu lược .
Tháng 2 năm 1859, Pháp nổ súng tiến công thành Gia Định. Vốn xuất thân là dân chài, nằm trong mạng lưới hệ thống lính đồn điền của kinh lược Nguyễn Tri Phương, nên ông sốt sắng theo và còn chiêu mộ được một số ít nông dân hưởng ứng để giữ đại đồn Chí Hòa, dưới quyền chỉ huy của Trương Định .
Năm 1861, nhờ lập được công lao, nên ông được triều đình phong chức Quyền sung Quản đạo ” ( 3 ) nên còn được gọi là Quản Chơn hay Quản Lịch
Nghĩa quân dưới quyền chỉ huy của ông gồm 1 số ít nhà yêu nước : Nguyễn Hiền Điều ( tức Phó Cơ Điều ), Nguyễn Học, hương thân Hồ Quang v.v …II. Chiến công
Huỳnh Mẫn Đạt đã tóm gọn hai chiến công điển hình nổi bật của Nguyễn Trung Trực bằng hai câu thơ :
Hỏa hồng Nhựt Tảo oanh thiên địa
Kiếm bạc Kiên Giang khấp quỷ thần1. Hỏa hồng Nhật Tảo
Sau khi đại đồn Chí Hòa thất thủ ( 25 tháng 2 năm 1861 ), Nguyễn Trung Trực về Tân An. Lúc này, Pháp đã chiếm Mỹ Tho ( tức thành Định Tường thất thủ vào ngày 12 tháng 4 năm 1861 ) nên thường cho những tàu chiến vừa chạy tuần tra vừa làm đồn nổi di động
Một trong số đó là chiếc tiểu hạm Espérance ( Hy Vọng ), án ngữ nơi vàm Nhựt Tảo, thuộc xã An Nhựt Tân, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An .
Tiểu hạm Espérance là một tàu gỗ có chỗ được bọc đồng chạy bằng hơi nước, hoàn toàn có thể ra vào những luồng lạch cạn, được trang bị đại bác cùng nhiều vũ khí đa năng. Đây là một trong những tàu thuộc hàng bậc nhất của thủy quân Pháp lúc bấy giờ .
Và vào trưa ngày 10 tháng 12 năm 1861, Nguyễn Trung Trực cùng phó quản binh Huỳnh Khắc Nhượng và Võ Văn Quang ( theo Hỏi đáp lịch sử dân tộc, còn Phan Thành Tài ghi : Nguyễn Văn Quang ) tổ chức triển khai cuộc phục kích đốt cháy tàu này. Nguyễn Phan Quang cho biết : “ Theo tài liệu của Pháp thì trong trận đốt cháy tàu Espérance, Nguyễn Trung Trực đã được sự hướng dẫn, hổ trợ của Trương Định ” ( Nước Ta thế kỷ 19, NXB TP. TP HCM, 2002, tr. 289 )
Trận Nhật Tảo có 2 quan điểm khác nhau : thứ nhất ông Trực cho giả làm thuyền đám cưới qua sông, thừa lúc áp sát tàu Espérance rồi đánh úp ; thứ hai là ông Trực cho giả làm thuyền buôn lúa, để đánh chìm tàu. YÙ kiến sau được nhiều người đồng ý, trong đó có sự đồng thuận của một số ít người tác giả người Pháp như Paulin Vial, Alfred Schreiner …
Trận này quân của Nguyễn Trung Trực đã diệt 17 lính và 20 tập sự người Việt, chỉ có 5 người trốn thoát ( 2 lính Pháp và 3 lính Tagal, tức lính đánh thuê philippines, cũng còn gọi là lính Ma Ní )
Lúc đó, viên sĩ quan chỉ huy tàu là trung úy thủy quân Parfait không xuất hiện, nên sau khi hay tin dữ, Parfait đã ra lệnh đốt cháy nhiều nhà cửa trong thôn Nhật Tảo .
Chiến thắng này được triều Nguyễn cho ban thưởng và ghi chép lại trong sử .
Còn với Pháp, viên thanh tra bản xứ tại Nam Kỳ tên Paulin Vial gọi đây là : ” “ một sự kiện đau đớn ” làm người An Nam mừng quýnh và gây xúc động, đau lòng thâm thúy trong lòng người Pháp ” ( 4 )
Và Alfred Schreiner gọi thắng lợi Nhật Tảo :
“ Đấy là khúc nhạc khởi đầu cho một cuộc tổng công kích hầu hết hàng loạt những đồn lũy của người Pháp ” ( 5 )
Ở một trang khác, tác giả đánh giá và nhận định :
“ Cuộc đốt cháy tàu Espérance la ” ” một biến cố bi thảm đã gây nên một nỗi xúc động thâm thúy nơi người Pháp và kích thích một cách lạ lùng trí tưởng tượng của người Annam “ ( sách đã dẫn, tr. 223 ) ”
Thật vậy, từ sau thắng lợi trên, hàng loạt cuộc tiến công trên sông liên tục diễn ra, như : nghĩa quân Nguyễn Trung Trực tiến công tàu tuần tiểu Pháp trên vàm sông Bến Lức ( tháng 12 năm 1862 ) và trên Sông Tra ( nay thuộc xã Hựu Thạnh, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An ) vào ngày 16 tháng 12 năm 1862, có sách ghi ngày 17 ) gây nhiều thiệt hại cho đối phương .
Paul Vial kể :
“ Ba chiếc tiểu hạm ( Iorcha ) đậu trên sông Vaico Đông ( tức Vàm Cỏ Đông ) nhằm mục đích trấn áp sự lưu thông đường thủy, bị tiến công rất là kinh hoàng bởi những nhóm người phần đông, do họ được cổ vũ bởi trận đốt tàu Espérance … Một trong ba chiếc đó, chiếc tiểu hạm số 3. Viên sĩ quan chỉ huy tàu này đã bị thương. ” ( sách đã dẫn, tr. 195 )
Và Georfes Taboulet đã thú nhận :
“ Cuộc nổi dậy giật mình bùng nổ vào ngày 16 tháng 12 năm 1862 ( trận Sông Tra ), và chẳng mấy chốc lan rộng ra. Ba chiếc tuần tra và nhiều đồn bót bị đánh chiếm, như đồn Rạch Tra, gần Hồ Chí Minh ; trong trận đó, viên đại úy Thouroude đã tử trận … ” ( 6 )2. Kiếm bạt Kiên Giang
Sau khi 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ mất ( hòa ước Nhâm Tuất năm 1862 ), Nguyễn Trung Trực rút về hoạt động giải trí ở ba tỉnh miền Tây. Đầu năm 1867, ông ra Huế nhậm chức Lãnh binh, đến giữa năm 1867, lại về Hà Tiên giữ chức Hà Tiên thành thủ úy để trấn giữ đất này. ( Theo biên bản hỏi cung tại khám lón sài Gòn. Có tài liệu nói Nguyễn Trung Trực nhận chức khi ở Tân An, có tài liệu nói ông ra Tỉnh Bình Định nhận chức )
khi thành Hà Tiên thất thủ ngày 23 tháng 6 năm 1867, ông theo lệnh triều đình rút quân về Bình Thuận mà đưa quân về lập địa thế căn cứ ở Hòn Chông ( nay thuộc xã Bình An, huyện Hòn Chông, tỉnh Kiên Giang ) ( 7 )
Rồi vào đêm 16 tháng 6 năm 1868, nghĩa quân cùng nhiều người dân yêu nước ( có cả hương chức và người Hoa, người Khơme ) do Nguyễn trung Trực chỉ huy đã bí hiểm, giật mình đánh úp đồn Kiên Giang ( nay là TP. Rạch Giá ) hủy hoại đối phương, trong số đó có 5 viên sĩ quan Pháp, thu được nhiều súng ống, đạn dược và làm chủ tình hình được 5 ngày liền .
Đây là lần tiên phong, lực lượng nghĩa quân đánh đối phương ngay tại TT đầu não của tỉnh. Nhận tin chủ tỉnh Rạch Giá cùng viên trung úy Gamard bị giết ngay tại trận, George Diirrwell gọi đây là ” một sự kiện bi thảm ” ( un événement tragique ) ( 8 )
Hai ngày sau ( ngày 18 tháng năm 1868 ), trung tá thủy quân A. Lee1onard Ansart, Trần Bá Lộc, Đỗ Hữu Phương ( 9 ) mang binh từ Vĩnh Long sang tiếp cứu. Ngày 21 tháng 6 năm 1868, Pháp phản công, ông phải lui quân về Hòn Chông rồi ra hòn đảo Phú Quốc, lập chiến khu tại Cửa Cạn nhằm mục đích chống đối phương lâu dài hơn .
Tháng 9 năm 1868, chiếc tàu Groeland chở Huỳnh Văn Tấn ( còn được gọi Huỳnh Công Tấn hay lãnh binh Tấn, trước có quen biết ông Trực vì cùng theo Trương Định kháng Pháp. Sau này, Tấn trở thành tập sự cho Pháp ), cùng 150 lính ở Gò Công đến hòn đảo Phú Quốc để vây hãm và truy đuổi ông Trực
Phạm Văn Sơn thuật chuyện :
” Hương chức và dân trên hòn đảo bị đội Tấn dọa phải theo và phụ lực với hắn để vây hãm bọn ông Trực. Sau hai trận ghê gớm, bọn ông Trực phải trốn vào trong núi. Đội Tấn rượt theo, nghĩa quân bị kẹt trong một khe núi nhỏ hẹp. Cùng đường, bọn ông Trực phải ra hàng … ” ( Việt sử tân biên, quyển 5, tập thượng, Hồ Chí Minh, 1962, tr. 198 )
Có người cho rằng để bảo toàn lực lượng nghĩa quân và nhân dân trên hòn đảo, và lòng hiếu với mẹ ( Pháp đã bắt mẹ của ông để uy hiếp ), Nguyễn Trung Trực tự ra nộp mình cho người Pháp và đã bị đưa về giam ở khám Lớn TP HCM TP HCM .
Pau Vial lại cho rằng :
“ Nguyễn Trung Trực chịu nộp mạng, chỉ vì thiếu lương thự và vì mạng sống của bao nghĩa quân đang bị vây hãm hàng tháng trời ròng rã tại Phú Quốc ” ( Paul Vial, sách đã dẫn )
Rất tiếc bản cáo của lãnh binh Tấn gửi cho thống đốc Nam kỳ về “ việc bắt Nguyễn Trung trực và Tống binh Cân ” đã bị thất lạc từ ngày 23 tháng 5 năm 1950, cho nên vì thế sự việc chưa được tường tận ( Nguyễn Nghị, ” Nguyễn Trung Trực qua 1 số ít tư liệu của Pháp ” cho biết : “ Nhiều hồ sơ tương đối quan trọng trong những năm 1860 đến đầu thập niên 1870, đã được ghi là phát hiện mất .
Theo một số ít nhà trình độ thì người Pháp khi trở lại Nước Ta đã lấy đi … ( 9 )III. Thọ tử
Pháp phủ dụ Nguyễn Trung Trực quy thuận không được nên vào ngày 27 tháng 10 năm 1868, đô đốc Ohier cho đưa ông về lại Rạch Giá và đã sai một người khơme trên Tưa ( người dân thường gọi ông là Bòn Tưa ) đưa ông ra hành hình tại chợ Rạch Giá
Địa điểm hành quyết ngay tại miếng đất đối lập “ chợ nhà lồng ” Rạch Giá, lúc bấy giờ còn cây da cổ thụ .
Trên miếng đất thấm máu Nguyễn Trung Trực, người Pháp cho xây lên Nhà Giây Thép, về sau là Ty Bưu Điện tỉnh lỵ. Riêng cây da cổ thụ đã bị đốn vào năm 1947
Ông hưởng dương khoảng chừng 30 tuổi
Người ta kể rằng :
Vào buổi sáng ngày 27-10-1868, nhân dân Tà Niên ( Theo ” Lược sử Đình Vĩnh Hòa Hiệp ” do Ban Bảo vệ di tích lịch sử tổ chức triển khai biên soạn và ấn hành vào tháng 1 năm 2008 : “ Từ đầu tháng 6 năm 1867 đến ngày 16 tháng 6 năm 1868, dân làng Tà Niên ( nay là xã Vĩnh Hòa Hiệp ) đã đùm bọc, chở che nghĩa quân Nguyễn Trung Trực, để họ sẵn sàng chuẩn bị tiến công đồn Kiên Giang. ) nơi nổi tiếng về nghề dệt chiếu, và nhiều nơi khác đổ xô ra chợ Rạch Giá, vì Pháp đem Nguyễn Trung Trực ra hành quyết. Ông Trực nhu yếu Pháp mở trói, không bịt mắt để ông nhìn đồng bào và quê nhà trước phút “ ra đi ”. Bô lão làng Tà Niên đến vĩnh biệt ông, đã trải xuống đất một chiếc chiếu hoa có chữ “ thọ ” ( chữ Hán ) màu đỏ tươi thật đẹp cho ông bước đứng giữa. Ông hiên ngang, dõng dạc trước pháp trường, nhìn khung trời, nhìn quốc gia và từ giã đồng bào … … ( 10 )
Tương truyền trước khi bị hành quyết Nguyễn Trung Trực đã sang sảng ngâm bài thơ tuyệt mệnh :Thư kiếm tùng nhưng tự thiếu niên,
Yêu gian đàm khí hữu long tuyền,
Anh hùng nhược ngộ vô dung địa.
Bảo hận thâm cừu bất đái thiên.Thi sĩ Đông Hồ dịch :
Theo việc binh nhưng thuở trẻ trai,
Phong trần hăng hái tuốt gươm mài.
Anh hùng gặp phải hồi không đất,
Thù hận chang chang chẳng đội trời.IV. Câu nói lưu danh
Khi ông bị người Pháp giải về Sài Gòn, viên thống soái Nam Kỳ lúc đó vừa dụ hàng vừa hăm dọa, ông trả lời:“ Thưa Pháp soái, chúng tôi chắc rằng chừng nào ngài trừ cho hết cỏ trên mặt đất thì chứng tỏ ngài mới may ra trừ tiệt được những người ái quốc của xứ sở này ” .
Và trước khi quyết tử, Nguyễn Trung Trực còn khẳng khái nhắc lại :
“ Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh Tây ”V. Khen ngợi
Sĩ phu yêu nước Nguyễn Thông ( 1827 – 1884 ) viết :
“ Nguyễn Văn Lịch tính thâm trầm, ngiêm nghị và can đảm và mạnh mẽ … ” ( ” truyện Hồ Huấn Nghiệp ” trong Kỳ Xuyên văn sao ) ”
Paul Vial kể : “ Trong khi đại úy thủy quân Piquet, thanh tra bổn quốc sự vụ phỏng vấn ông Trực, ông Trực tỏ ra rất cương quyết và rất đàng hoàng chính đáng. Các câu vấn đáp của ông đã cho thấy một cách đúng chuẩn phẩm chất của con người đó, người đã đóng một vai trò đáng kể ”
Và ông Trực đã bình tĩnh nói với Piquet :
” Số tôi hết rồi, tôi đã không cứu được quê nhà tôi thì nay tôi chỉ xin một điều là được chết sớm chừng nào hay chừng đấy ”
Ở những đoạn văn khác, Paul Vial còn khen ngợi :
” Nguyễn Trung Trực là “ người rất tự trọng, có tư cách đáng quí và đầy nghị lực ”, là ” người có khuôn mặt mưu trí và dễ có thiện cảm ” là ” một người chỉ huy trẻ tuổi, rất can đảm và mạnh mẽ, chống nhau với ta ngót mười năm trời ” ( sách đã dẫn, quyển 2, tr. 241 )
Alfred Schreiner cho biết :
“ Trong suốt thời kỳ bị nhốt, ông Trực không có khi nào tỏ ra yếu ớt cả, một cách thẳng thắng và đàng hoàng, ông công nhận những chiến công của ông và cũng nhận là đã khinh thường sức mạnh của Pháp. Ngoài ra, ông chỉ nhu yếu ban cho ông một ân huệ, ấy là được xử tử ông ngay tức khắc ( sách đã dẫn, tr. 300 ) ”
Trong một bài thơ điếu, Huỳnh Mẫn Đạt đã viết :
Điếu Nguyễn Trung TrựcThắng phụ nhung trường bất túc luân
Đồi ba chỉ trụ ức ngư dân
Hỏa hồng Nhựt Tảo oanh thiên địa
Kiếm bạc Kiên Giang khấp quỷ thần
Nhất đán phi thường tiêu tiết nghĩa
Lưỡng toàn vô úy báo quân thân
Anh hùng cường cảnh phương danh thọ
Tu sát đê đầu vị tử nhân.Bản dịch của Thái Bạch :
Thắng bại chi bàn việc tướng quân
Người chài trụ đá khúc gian truân
Lửa bừng Nhựt Tảo rêm trời đất
Kiếm tuốt Kiên Giang rợn quỷ thần
Một sớm nhẹ mình nêu tiết nghĩa
Đôi đường trọn chữ báo quân thân
Anh hùng cứng cổ danh thơm mãi
Lũ sống khom lưng chết thẹn dầnĐược tin ông thọ tử, vua Tự Đức sai hoàng giáp Lê Khắc Cẩn làm lễ truy điệu, đọc bài điếu với chính bút ngự ( 12 ) rằng :
Ký bi ngư nhânHùng tại quốc sĩ
Hỏa Nhựt Tảo thuyền
Đồ Kiên Giang lũy
Địch khái đồng cừu
Thân tiên tự thỉ
Hiệu khí cổ kim
Thử nhân nam tư
Xích huyết hoàng sa
Ô hô dĩ hi
Huyết thực thiên thu
Chương nhữ trung nghĩa.Thái Bạch dịch :
Giỏi thay người chài
Mạnh thay quốc sĩ
Đốt thuyền Nhật Tảo,
Phá lũy Kiên Giang.
Thù nước chưa xong
Thân sao đã mất
Hiệu khí xưa nay
Người nam tử ấy
Máu đỏ, cát vàng
Hỡi ơi thôi vậy
Ngàn năm hương khói,
Trung nghĩa còn đây.Vua Tự Đức đã sắc phong ông làm ” Thượng Đẳng Linh Thần ” thờ tại làng Vĩnh Thanh Vân, Rạch Giá nơi ông đã hiên ngang thà chịu chết chớ không chịu đầu hàng Pháp .
Đã rất nhiều năm qua, dân làng Vĩnh Thanh Vân, nhất là những ngư dân, luôn tôn lính và tự hào về Nguyễn Trung Trực, một người xuất thân từ giới dân chài áo vải, vậy mà đã trở thành một vị anh hùng, thật xứng danh với : “ Sống làm Tướng và chết làm Thần ! ” và “ anh khí như hồng ”, nghĩa là khí tiết của người anh hùng rực rỡ tỏa nắng như cầu vồng bảy sắcVI. Tưởng nhớ
Sau khi ông bị hành hình, dân chúng cảm thương vô cùng nên đã bí mật thờ ông như một vị anh hùng trong đền thờ Nam Hải đại vương (cá Ông hay cá Voi), chính là đền thờ Nguyễn Trung Trực tại TP Rạch Giá hiện nay.Sau khi ông bị hành hình, dân chúng cảm thương vô cùng nên đã bí hiểm thờ ông như một vị anh hùng trong đền thờ Nam Hải hoàng thượng ( cá Ông hay cá Voi ), chính là ngôi đền chánh thờ Nguyễn Trung Trực tại TP. Rạch Giá lúc bấy giờ .
Và khi người Pháp không còn quản lý Nước Ta, vào năm 1970, nhân dân địa phương đã lập tượng Nguyễn Trung Trực bằng đồng, màu đen đặt trước “ chợ nhà lồng ” Rạch Giá ( cũ ) .
Hiện nay, phần mộ của ông và tượng thờ ( được sơn lại màu nâu đỏ ) vừa kể đều đã được sơ tán vào trong khuôn viên khu đền thờ của ông tại TP Rạch Giá ( ảnh ), và người ta đã cho làm một tượng mới bằng cũng bằng đồng lớn hơn, màu xám, để sửa chữa thay thế ( năm 2000 ). Khu “ chợ nhà lồng ” mà sau này còn có tên là “ Khu thương mại ”, cũng đã di tán nơi khác để nơi đó trở thành thành công viên .
Nhiều tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long … nhân dân đã lập đền thờ ông và hằng năm đều có tổ chức triển khai lễ tưởng niệm trang trọng. ( Đình Nguyễn Trung Trực tại Rạch Giá tổ chức triển khai lễ giỗ vào những ngày từ 27 đến 29 tháng 8 âm lịch. Đình và mộ nơi này đã được công nhận là di tích lịch sử Lịch – Văn hóa cấp vương quốc vào ngày 06 tháng 12 năm 1989 ) .Chú thích
1. Ghi theo sách ” Hỏi đáp lịch sử dân tộc Nước Ta ” tập 4, NXB Trẻ, năm 2007. Căn cứ biên bản hỏi cung ông Nguyễn Trung Trực tại khám đường Hồ Chí Minh vào tháng 10 năm 1868, ông Trực “ mới được 30 tuổi ” ( age � de 30 ans ), thì rất hoàn toàn có thể ông sinh năm 1838. Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế, ” Từ điển nhân vật Nước Ta ” cho rằng ông sinh năm 1837
2. Theo “ Hỏi đáp lịch sử dân tộc Nước Ta ”, sách đã dẫn, tr. 46
3. Theo Hỏi đáp lịch sử vẻ vang tập 4, sách đã dẫn, tr. 46. Phan Thành Tài trong Nam Bộ – đất và người ghi là “ quyền sung quản binh đạo ” ( Hội Khoa học lịch sử vẻ vang TP. Hồ Chí Minh, NXB Trẻ tr. 159 )
4. Paul Vial : ” Les premières années de la Cochinchine, Colonie Francaise ”, 2 quyển, Challamet Ainé, Libraire Editeru, Paris, 1874, tr. 124
5. Alfred Schreiner : ” Abrégéde I’histoire D’An nam ”, 2 è Éd. TP HCM, 1906, tr. 224
6. Georfes Taboulet : ” La geste Francais en Indochine ”, Paris, 1956, tr. 481
7. Phan Thành Tài cho biết lúc đó ông mới đổi tên thành Nguyễn Trung Trực ( sách đã dẫn, tr. 167 )
8. Bulletin de la Société des Etudes Indochine de Saigon ”, Hồ Chí Minh, tr. 40
9. Theo bản hồ sơ cá thể của Huỳnh Công Tấn và Trần Bá Lộc còn cất giữ tại kho lưu trử Trung ương II tại Thành phố Hồ Chí Minh, trong đó có bản quyết định hành động khen thưởng Bắc đẩu bội tinh và phong chức lãnh binh cho Tấn ( S.L 2754. Dossier individuel le Huynh Van Tan, lanh binh à Go Công ) và quyết định hành động số 803, ký ngày 15 tháng 8 năm 1868 của đô đốc toàn quyền Nam kỳ G. Ohier, thăng chức đốc phủ sứ cho Trần Bá Lộc, và bản thông tin số 532 cũng do đô đốc này ký để báo cho Lộc biết quyết định hành động của Bộ trưởng thủy quân Pháp tặng thưởng cho Lộc huy chương danh dự hạng I. ( S.L 311. Dossier individuel le M. Loc ( Tran Ba ) ) Hai người này được Pháp khen thưởng vì đã có công trong việc “ tiểu trừ bọn phản loạn ở Rạch Giá ”. ( ám chỉ cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực )
Theo Nguyễn Nghị : hồ sơ ông Đỗ Hữu Phương cũng tại kho lưu trử trên, kể lể dài dòng việc làm ông có tham gia cuộc hành quân tái chiếm Rạch Giá ( sách đã dẫn, tr. 252 )
10. Nam Bộ, xưa và nay, NXB TP. TP HCM và tạp chí Xưa và Nay, năm 2005, tr. 255
11. theo web : http://vannghesongcuulong.org/vietnamese/tulieu_tacpham.asp?TPID=892&LOAIID=17&TGID=223
12. Bài thơ của vua Tự Đức điếu Nguyễn Trung Trực, theo quan điểm của Nguyễn Thị Thanh Xuân trong cuộc “ hội thảo chiến lược khoa học về thân thế và sự nghiệp Nguyễn Trung Trực ” trong hai ngày 7 và 8 tháng 10 năm 1988 tại Rạch Giá, thì bài thơ này của nhà thơ Trương Gia Mô .
Điều này rất hoàn toàn có thể, vì Nguyễn Nghị địa thế căn cứ ” Cơ mật viện trích tư sự, ” đề ngày 6 tháng 2 năm Tự Đức 24, tức 1872 cho biết : “ Mãi bốn năm sau khi Nguyễn Trung Trực mất, triều đình Huế mới có văn thư nhu yếu ” cứu xét rõ nguyên ủy, sự trạng của hai tên này ( Nguyễn Trung Trực và Hồ Huân Nghiệp ) xuất thân như thế nào, đã từng làm quan hay chưa, theo ai thao tác gì, chết ngày nào ” để xem có nên hay không nên tặng thưởng … ( Tài liệu cơ mật mang ký hiệu R. 73/199 tại Lưu trữ Trung ương 2. Dẫn theo ” Nguyễn Trung Trực qua 1 số ít tư liệu Pháp ”, sách đã nêu, tr. 254 )Nguồn bài đăng
Chia sẻ:
- Thêm
Thích bài này:
Thích
Xem thêm: Lỗi gì mà khiến tủ lạnh kêu to liên tục
Đang tải …
Có liên quan
Source: https://suachuatulanh.org
Category : Hỏi Đáp Chuyên Gia
Có thể bạn quan tâm
- Lỗi E-66 Máy Giặt Electrolux Giải Pháp Tốt Nhất (09/01/2025)
- Nguyên Nhân Gây Lỗi H-36 Trên Tủ Lạnh Sharp (05/01/2025)
- Lỗi E-62 máy giặt Electrolux kiểm tra bộ nhiệt dễ dàng (31/12/2024)
- Lỗi H-35 Trên Tủ Lạnh Sharp Hãy Cảnh Giác Ngay (27/12/2024)
- Tư vấn sửa lỗi E-61 trên máy giặt Electrolux (23/12/2024)
- Lỗi H-34 trên tủ lạnh Sharp Đừng để mất lạnh! (19/12/2024)